Có thể xử lý Th về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khi bổ sung chứng cứ
Sau khi nghiên cứu bài viết “Không có người thực hiện hành vi phạm tội, xử lý tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được không?” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu đăng ngày 19/07/2024, tôi có một số ý kiến trao đổi.
Mục 8 Công văn số 64/TANDTC-PC: Điều 323 của BLHS về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội quy định: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, VKSNDTC, TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có” là có cần cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của BLHS và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa.
Theo đó, để xử lý hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản, chỉ cần chứng minh rằng người thực hiện hành vi này biết rõ rằng tài sản này do phạm tội mà có, và giá trị của tài sản đủ để thỏa mãn yêu cầu định lượng quy định trong các tội phạm tương ứng. Với điều kiện này, xác định người đó bị xử lý về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, không cần quan tâm đến việc người chiếm đoạt tài sản trước đây là ai.
Điểm a khoản 10 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLL-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30/11/2011 quy định: “Về mặt chủ quan của tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội phải biết rõ tài sản mà mình chứa chấp hoặc tiêu thụ là tài sản do phạm tội mà có nhưng không có hứa hẹn, bàn bạc hoặc thỏa thuận trước với người có tài sản do phạm tội mà có.” Có thể thấy, ngoài việc biết rõ tài sản là do phạm tội mà có thì người chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản cần phải thỏa mãn điều kiện không có hứa hẹn, bàn bạc hoặc thỏa thuận trước với người có tài sản do phạm tội mà có.
Theo Điều 323 của BLHS, nếu muốn truy tố Th về “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” phải chứng minh được rằng chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius của chị Phan Thị L là tài sản không phải do Th chiếm đoạt được mà do một người khác thực hiện việc chiếm đoạt này. Đồng thời, Th phải là “người không hứa hẹn trước” với S là người mà theo lời khai của Th trộm cắp chiếc mô tô nói trên.
Quay trở lại vụ án, mặc dù theo lời khai của Th, cơ quan chức năng chưa xác định được S nhưng có chứng cứ chứng minh một người khác (không phải Th) là người thực hiện hành vi trộm cắp trước đó phù hợp với lời khai của bị hại L. Dựa vào các tài liệu nói trên, khi có chứng cứ chứng minh tài sản do một người khác phạm tội và không hứa hẹn trước với Th, tuy không thể xác định danh tính của S nhưng hoàn toàn có đủ căn cứ xử lý Th về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là phù hợp, tránh việc bỏ lọt tội phạm.
Trong trường hợp không xác định được nhân thân, lai lịch của người tên S theo lời khai của Th và cũng không có chứng cứ chứng minh một ai khác không phải Th thực hiện hành vi trộm cắp và nếu có chứng minh được thì liệu họ có bàn bạc, hứa hẹn, thỏa thuận trước với nhau hay không. Không ngoại trừ trường hợp chính Th là người đã trộm cắp chiếc xe mô tô của chị L bởi theo lời khai của chị L thì chị chỉ phát hiện một thanh niên không rõ lai lịch đang trộm cắp xe mô tô đó của mình nên đuổi theo, nhưng không kịp. Do đó, trong trường hợp này không đủ căn cứ để xử lý Th về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
Như vậy, với vấn đề đặt ra là trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không xác định, không tìm ra người đã thực hiện hành vi phạm tội, ta kết luận người mang tài sản đi tiêu thụ đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” hay không? Theo quan điểm cá nhân, có thể xử lý Th về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có khi bổ sung chứng cứ chứng minh tài sản do một người khác phạm tội và không hứa hẹn trước với Th.
Tòa án quân sự Quân khu 3 xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Ảnh: Quang Anh
Bài liên quan
-
Trần Đức C phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
-
Hành vi của Trần Đức C đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 BLHS
-
Trần Đức C phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
-
Trần Đức C có phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có?
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận