Bàn về yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Đọc và nghiên cứu bài viết “Yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất có thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án – Thực tiễn và kiến nghị” trên Tạp chí Toà án nhân dân điện tử ngày 30/10/2025, của các tác giả Trương Huỳnh Hải và Dương Thị Thêu, là người trực tiếp làm công tác giải quyết, xét xử các vụ án tranh chấp đất đai, chúng tôi mạnh dạn trao đổi, phân tích và đưa ra một số quan điểm cụ thể.
Kế thừa quy định của Luật Đất đai năm 2013, Luật Đất đai năm 2024 mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai cho Tòa án nhân dân. Theo đó, Tòa án nhân dân không chỉ giải quyết các tranh chấp đất đai mà đất tranh chấp có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản trên đất[1] (Giấy chứng nhận), mà còn có quyền giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất đối với đất không có giấy chứng nhận[2]. Tuy nhiên, cho đến nay, nhiều Tòa án vẫn chưa có quan điểm thống nhất về thẩm quyền của Tòa án khi xem xét, quyết định, công nhận quyền sử dụng đất cho một trong các bên tranh chấp, nhiều Thẩm phán vẫn còn boăn khoăn khi giải quyết các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất.
1. Nhận diện vấn đề
Thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp đất đai ở Tòa án nhân dân phát sinh hai dạng tranh chấp chủ yếu. Dạng thứ nhất là một bên được cấp giấy chứng nhận nhưng không sử dụng, không chiếm hữu đất, bên còn lại đang chiếm hữu, đang sử dụng đất nhưng không được cấp Giấy chứng nhận. Ở dạng này, thường tập trung vào nội dung khởi kiện: bên sử dụng đất yêu cầu bên được cấp giấy chứng nhận chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất và yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với đất tranh chấp, đề nghị Tòa án hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho đất tranh chấp. Khi giải quyết yêu cầu này, Tòa án phải xem xét, công nhận quyền sử dụng đất của bên đưa ra yêu cầu. Dạng thứ hai là cả hai bên đều không có giấy chứng nhận liên quan đến đất tranh chấp. Một trong hai bên yêu cầu bên kia trả lại đất và yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất đối với đất tranh chấp. Khi giải quyết yêu cầu này, Tòa án phải xem xét, công nhận quyền sử dụng đất của bên đưa ra yêu cầu.
Vấn đề đặt ra là: Tòa án có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu của đương sự không. Hiện nay trong quá trình giải quyết, xét xử các dạng tranh chấp này, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, điều này dẫn đến các phán quyết của Tòa án không thống nhất, không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng công tác xét xử của Tòa án mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Bài viết của các tác giả đã nêu ra 03 quan điểm về thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và các tác giả đồng thuận với quan điểm thứ ba. Chúng tôi đồng thuận với quan điểm của các tác giả và làm rõ thêm cơ sở của các quan điểm như sau:
Thứ nhất, đối với quan điểm cho rằng việc công nhận quyền sử dụng đất là thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan quản lý hành chính nhà nước về đất đai theo quy định của pháp luật đất đai, thông qua hình thức cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quan điểm này cho rằng Tòa án công nhận quyền sử dụng đất là làm thay thẩm quyền của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, và viện dẫn các khoản 33, 34 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 là: “Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất lần đầu cho người đang sử dụng đất ổn định đối với thửa đất xác định theo quy định của Luật này” và “Nhà nước giao quyền sử dụng đất (sau đây gọi là Nhà nước giao đất) là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quyết định giao đất cho đối tượng có nhu cầu sử dụng đất.”
Thứ hai, quan điểm cho rằng yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thuộc thẩm quyền của Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, và giải thích: thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất là quyền của Nhà nước, không phải chỉ của cơ quan hành chính trong bộ máy nhà nước. Trường hợp quyền sử dụng đất không có tranh chấp thì cơ quan hành chính trong bộ máy nhà nước được giao nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để công nhận, xác nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất. Trường hợp quyền sử dụng đất bị tranh chấp thì Tòa án có chức năng xét xử, nhân danh Nhà nước, xác định, công nhận quyền sử dụng đất của chủ thể đang tranh chấp (theo hình thức phân định, công nhận quyền sử dụng, chiếm hữu, định đoạt tài sản theo Bộ luật Dân sự); trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận, xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của một trong các bên đương sự. Quan điểm này viện dẫn các quy định của Bộ luật Dân sự về căn cứ xác lập quyền sở hữu[1] và các quy định của Luật Đất đai năm 2024[2].
2. Lập luận và đề xuất
Chúng tôi đồng thuận với quan điểm của các tác giả nêu trong bài viết và bổ sung thêm các lập luận sau:
Thứ nhất, khoản 2 Điều 54 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất”; Điều 4 Luật Đất đai năm 2024 quy định: “Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất”; khoản 5 Điều 15 “Trách nhiệm của nhà nước đối với người sử dụng đất là:...giải quyết tranh chấp đất đai”. Theo đó, Hiến pháp và pháp luật đất đai hiện hành quy định rõ, thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp đất đai là của Nhà nước.
Thứ hai, khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Các khoản 1, 3 Điều 102 Hiến pháp quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và “có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Khoản 3 Điều 14 Luật Đất đai quy định “Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai theo thẩm quyền quy định của Luật này và luật khác có liên quan”. Khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 quy định “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất”.
Khoản 3 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) quy định “Tòa án nhân dân nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử, giải quyết các vụ án, vụ việc theo quy định của pháp luật”.
Từ các quy định của Hiến pháp và các văn bản luật đã viện dẫn cho thấy: chủ thể có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất không chỉ có cơ quan quản lý hành chính nhà nước theo các khoản 33, 34 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024.
Theo đó, chủ thể có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất của người sử dụng đất theo Hiến pháp, pháp luật hiện hành được xác định như sau:
- Khi quyền sử dụng đất không có tranh chấp, thì thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất là của cơ quan hành chính nhà nước (Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền) thông qua hình thức ban hành quyết định giao đất, cấp giấy chứng nhận.
- Khi quyền sử dụng đất có tranh chấp thì thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất là:
+ Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân các cấp đối với đất tranh chấp không có giấy tờ theo khoản 2 Điều 236 và bên tranh chấp chọn nộp đơn yêu cầu Ủy ban nhân dân giải quyết tranh chấp theo điểm a khoản 2 và khoản 3 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024;
+ Thẩm quyền của Tòa án nhân dân dân nếu việc tranh chấp thuộc khoản 1 Điều 236 (đất có giấy chứng nhận) và thuộc điểm b khoản 2 Điều 236 (đất không có giấy chứng nhận nhưng một bên tranh chấp lựa chọn quyền khởi kiện tại Tòa án).
Qua công tác xét xử chúng tôi thấy rằng: yêu cầu xác định quyền sử đụng đất hợp pháp của người sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất cho một trong các bên đương sự đang chiếm số nhiều trong các vụ án tranh chấp đất đai do Tòa án giải quyết. Những vụ án này thường có tính phức tạp cao, thời gian giải quyết kéo dài, tiềm ẩn nhiều vấn đề tác động tiêu cực đến trị an xã hội, tác động trực tiếp đến yêu cầu xây dựng, phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới. Do vậy, chúng tôi đồng thuận với các tác giả về kiến nghị Tòa án nhân dân tối cao cần có hướng dẫn thống nhất về vấn đề này, khẳng định rõ, cụ thể thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất (trong từng mức độ, phạm vi quyền: sử dụng, chiếm hữu, định đoạt quyền sử dụng đất) của Tòa án nhân dân khi giải quyết tranh chấp đất đai, để đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án dân sự nói chung, án tranh chấp đất đai nói riêng, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người dân, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
[1] Điều 235 Bộ luật Dân sự năm 2015
[2]. điểm b khoản 1, khoản 6 Điều 137, điểm đ khoản 2 Điều 142, điểm e khoản 1 Điều 148, điểm d khoản 1 Điều 149, điểm e khoản 1 Điều 151, điểm đ khoản 2 Điều 152, Điều 236 Luật Đất đai năm 2024.
Ảnh: nguồn Internet
Bài đọc nhiều nhất tuần
-   
  Đồng chí Nguyễn Văn Quảng giữ chức Bí thư Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao
 -   
  Trao đổi về bài viết “Bàn về Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu do “nhầm lẫn, giả tạo” trong giao dịch dân sự”
 -   
  Trao đổi bài viết: “Xử lý vật chứng giá trị còn lại không đáng kể, không sử dụng được như thế nào cho đúng?”
 -   
  Bàn về áp dụng tình tiết giảm nhẹ “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” trong trường hợp bị cáo không thừa nhận phạm tội
 -   
  Lễ tổng kết và trao giải Cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử 80 năm Tòa án nhân dân”: Dấu mốc vàng son trên chặng đường bảo vệ công lý
 
 
 
 
Bình luận