Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của người khởi kiện theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 - bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Sự thiếu thống nhất giữa nghĩa vụ chứng minh và quyền tiếp cận chứng cứ dẫn đến việc người khởi kiện không thể tự thu thập chứng cứ đang do cơ quan nhà nước hoặc tổ chức khác lưu giữ, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền khởi kiện và tiến trình tố tụng. Từ phân tích quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng tại Tòa án, bài viết đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền tiếp cận chứng cứ của người khởi kiện từ giai đoạn nộp đơn.
Đặt vấn đề
Nghĩa vụ chứng minh là nguyên tắc trung tâm của tố tụng dân sự, được ghi nhận tại Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. Theo nguyên tắc này, người khởi kiện có trách nhiệm chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp bằng việc nộp các tài liệu, chứng cứ liên quan.
Tuy nhiên, không phải người khởi kiện nào cũng có đủ điều kiện tự mình lưu giữ, thu thập chứng cứ. Trong nhiều vụ án dân sự - đặc biệt là các vụ án tranh chấp đất đai, tranh chấp dân sự ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số - các tài liệu liên quan lại do cơ quan nhà nước quản lý. Do đó, để hoàn thiện hồ sơ khởi kiện, họ cần được quyền yêu cầu các cơ quan này cung cấp chứng cứ.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ chỉ của đương sự; trong khi đó, người khởi kiện chỉ trở thành đương sự sau khi Tòa án ra Thông báo thụ lý vụ án. Giai đoạn trước thụ lý - giai đoạn mà họ thực sự cần chứng cứ nhất để được Tòa án chấp nhận thụ lý - lại không có quyền tiếp cận các chứng cứ này.
Sự bất cập này không chỉ mang tính lý luận mà còn gây ra nhiều vướng mắc trong thực tiễn, dẫn đến việc người khởi kiện không thể thực hiện quyền khởi kiện một cách trọn vẹn, đồng thời làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án.
1. Quy định của pháp luật hiện hành và một số hạn chế, vướng mắc
1.1. Quy định về tư cách đương sự và quyền tiếp cận chứng cứ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 68 BLTTDS, đương sự trong vụ án dân sự gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Khoản 2 Điều 68 BLTTDS quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm…”.
Như vậy, việc xác định tư cách đương sự của người khởi kiện chỉ hình thành sau khi Tòa án thụ lý vụ án.
Ngoài ra, Điều 196 BLTTDS quy định về thông báo về việc thụ lý vụ án cũng ghi nhận các nội dung về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong Thông báo thụ lý vụ án.
Từ đó, có thể khẳng định, trước khi thụ lý vụ án thì người nộp đơn khởi kiện chưa phải là đương sự.
Với quy định này, thực tế phát sinh một số khó khăn, vướng mắc như sau:
Thứ nhất, các quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự quy định tại Điều 70 BLTTDS, trong đó có quyền: “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình.” (khoản 6) chưa phát sinh. Hay nói cách khác, quyền này chỉ phát sinh khi người nộp đơn khởi kiện được công nhận là đương sự.
Thứ hai, người khởi kiện không có “quyền năng tố tụng” để thực hiện việc thu thập chứng cứ đang do cơ quan khác lưu giữ theo các nội dung ghi nhận tại Điều 70 BLTTDS.
Có thể thấy, việc phận định địa vị pháp lý cùng những quyền tố tụng áp dụng cho chủ thể là “người khởi kiện” và “đương sự” cho thấy có sự bất cập, chưa bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người khởi kiện trong việc cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là co căn cứ và hợp pháp. Tác giả cho rằng, quy định của BLTTDS hiện hành đã tạo ra khe hở pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện nghĩa vụ chứng minh của người khởi kiện.
1.2. Nghĩa vụ giao nộp chứng cứ khi khởi kiện – một yêu cầu khắt khe nhưng thiếu cơ chế hỗ trợ
Khoản 5 Điều 189 BLTTDS quy định: “Kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
Điểm a khoản 3 Điều 191 BLTTDS quy định: “3. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và có một trong các quyết định sau đây:
a) Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;”.
Như vậy, theo quy định của Điều luật thì kèm theo đơn khởi kiện phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Nếu không có đủ chứng cứ, Tòa án có thể yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo Điều 191. Nếu người khởi kiện không bổ sung đúng hạn, Tòa án sẽ trả lại đơn. Điều này thể hiện sự chặt chẽ trong quy định về nghĩa vụ chứng minh ngay từ giai đoạn khởi kiện.
Điều 106 quy định về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ, tại khoản 1 Điều này quy định: “Đương sự có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ…”.
Như vậy, với quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng chỉ áp dụng cho đương sự, còn người khởi kiện chưa có quyền này.
Tuy nhiên, nghiên cứu quy định của BLTTDS và thực tiễn xét xử cho thấy tồn tại sự bất cập trong quy định này. Theo đó, với yêu cầu khi nộp đơn khởi kiện, nhà làm luật yêu cầu người khởi kiện phải nộp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình nhưng lại chưa có quy định cho phép người khởi kiện thực hiện một số quyền như: yêu cầu cơ quan hành chính cung cấp hồ sơ quản lý đất đai; yêu cầu tổ chức tín dụng cung cấp sao kê tài khoản, chứng từ giao dịch; yêu cầu cơ quan thuế cung cấp chứng từ về thực hiện nghĩa vụ tài chính; yêu cầu Ủy ban nhân dân xã/phường cung cấp biên bản hòa giải hoặc tài liệu liên quan…
Nói cách khác, quy định hiện hành yêu cầu người khởi kiện phải nộp chứng cứ nhưng lại không trao cơ chế để họ có được chứng cứ. Đây rõ ràng tồn tại mâu thuẫn pháp lý gây ảnh hưởng đến quyền của người khởi kiện; gây tâm lý hoang mang, bức xúc và giảm niềm tin của người dân vào cơ chế bảo vệ quyền tư pháp.
1.3. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến yêu cầu cung cấp chứng cứ
Có thể thấy, các tranh chấp dân sự diễn ra ngày càng tăng, các vụ án dân sự ngày càng nhiều gây sức ép không nhỏ cho Tòa án. Việc tồn tại một số hạn chế, bất cập liên quan đến quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của người khởi kiện như phân tích ở trên dẫn đến hệ qur là kéo dài tố tụng và gia tăng án tồn đọng.
Từ thực tiễn xét xử, có thể chỉ ra một số tồn tại sau đây:
Trong các tranh chấp quyền sử dụng đất, hồ sơ địa chính, bản đồ qua các thời kỳ, biên bản hòa giải, hồ sơ cấp Giấy chứng nhận… đều do cơ quan hành chính quản lý.
Người khởi kiện không thể tự tiếp cận, dẫn đến hồ sơ khởi kiện không đầy đủ.
Về phía Tòa án, sau khi thụ lý phải gửi văn bản đến nhiều cơ quan khác nhau để thu thập chứng cứ. Việc cung cấp chứng cứ thường kéo dài hơn thời hạn 15 ngày, thậm chí kéo dài hàng tháng. Nhiều vụ án phải tạm đình chỉ để chờ cung cấp chứng cứ - có vụ tạm đình chỉ nhiều lần.
Điều này dẫn đến lượng án tồn đọng tăng, tỷ lệ giải quyết án đúng hạn giảm, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hoạt động xét xử.
Có thể thấy, bất cập của quy định pháp luật đã có tác động tiêu cực đến cả quyền khởi kiện của công dân và hiệu quả hoạt động của Tòa án.
2. Sự cần thiết mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện
Việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện bảo đảm một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, phù hợp với nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận công lý
Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-06-2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp năm 2020 đều khẳng định phải bảo đảm quyền tiếp cận công lý của người dân. Không thể nói rằng người dân có quyền khởi kiện nếu họ không có điều kiện thực thi quyền đó do thiếu chứng cứ để Tòa án thụ lý.
Vì vậy, việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ cho người khởi kiện là yêu cầu cần thiết và khách quan nhằm: bảo đảm quyền khởi kiện thực chất chứ không chỉ mang tính hình thức; bảo đảm quyền tiếp cận tài liệu, thông tin của công dân; đồng thời phù hợp với xu thế tố tụng hiện đại, đặt người dân ở vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp.
Thứ hai, việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện còn bảo đảm sự cân đối giữa nghĩa vụ chứng minh và khả năng chứng minh
Nghĩa vụ chứng minh không thể được thực hiện nếu người khởi kiện không có điều kiện tiếp cận chứng cứ. Mở rộng quyền tiếp cận chứng cứ giúp: tạo sự cân bằng giữa “nghĩa vụ phải chứng minh” và “quyền thu thập chứng cứ”; giúp người khởi kiện chuẩn bị hồ sơ khởi kiện kỹ lưỡng hơn, tránh khởi kiện tùy tiện; từ đó giảm thiểu việc Tòa án phải hướng dẫn sửa đổi, bổ sung đơn nhiều lần.
Thứ ba, việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện góp phần nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án
Tòa án chỉ nên thực hiện việc thu thập chứng cứ phụ trợ trong trường hợp đương sự đã thực hiện mà không thể thực hiện được. Theo đó, Tòa án chỉ thực hiện vai trò “hỗ trợ” theo đúng tinh thần đổi mới được ghi nhận tại Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, sửa đổi, bổ sung năm 2025 và BLTTDS năm 2015.
Như vậy, việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện sẽ giúp cho người khởi kiện có thể thu thập chứng cứ ngay từ đầu. Điều này mang lại một số kết quả như: Tòa án giảm nhiều thủ tục hành chính trong giai đoạn chuẩn bị xét xử; thời gian giải quyết vụ án rút ngắn; số vụ án phải tạm đình chỉ giảm đáng kể; tính minh bạch, công khai trong tranh tụng được nâng cao.
Có thể thấy, lợi ích của việc mở rộng quyền này là rất lớn, không chỉ đối với người khởi kiện mà cả đối với Tòa án và hệ thống tư pháp.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Từ việc phân tích, chỉ rõ một số hạn chế, vướng mắc, bất cập nêu trên, tác giả xin đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này như sau:
Thứ nhất, kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể quy định về yêu cầu cung cấp chứng cứ. Tác giả đề xuất nội dung hướng dẫn cần quy định: Kể từ thời điểm Tòa án ban hành Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện và giao nộp tài liệu, chứng cứ theo khoản 5 Điều 189 BLTTDS, người khởi kiện được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ để hoàn thiện hồ sơ khởi kiện.
Điều này vẫn bảo đảm quy định hiện hành của BLTTDS năm 2015 về quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ như ; đồng thời, chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp tài liệu theo yêu cầu, tuân thủ thời hạn theo Điều 106 BLTTDS. Đồng thời, nội dung hướng dẫn này giúp mở rộng quyền năng thực tế của người khởi kiện, bảo đảm yêu cầu trong giải quyết các tranh chấp dân sự.
Thứ hai, trong thời gian tới, khi sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015, tác giả kiến nghị nhà làm luật cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Điều 106 quy định về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ.
Theo đó, nội dung sửa đổi, bổ sung Điều luật này cần bảo đảm:
Một là, cần mở rộng chủ thể có quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ, bao gồm: người khởi kiện và người yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Hai là, bổ sung một khoản quy định rõ: “Người khởi kiện được quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo đảm việc thực hiện quyền khởi kiện.”
Đồng thời, cần điều chỉnh quy định rõ trách nhiệm cung cấp của cơ quan quản lý nhà nước, tránh tình trạng chậm trễ, đùn đẩy; tăng cường chế tài hành chính đối với cơ quan chậm cung cấp chứng cứ, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật.
Việc sửa đổi này sẽ khắc phục triệt để bất cập nêu trên và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Kết luận
Khoảng trống pháp lý trong BLTTDS năm 2015 về quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của người khởi kiện, cụ thể là khi người khởi kiện có nghĩa vụ nộp chứng cứ nhưng lại không có quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ đã gây ra những khó khăn đáng kể trong thực tiễn khởi kiện và xét xử. Sự không hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ làm ảnh hưởng đến quyền tiếp cận công lý của công dân và hiệu quả hoạt động tố tụng của Tòa án.
Việc mở rộng quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ cho người khởi kiện từ giai đoạn nộp đơn khởi kiện là cần thiết, hợp lý, phù hợp với thực tiễn và chính sách pháp lý hiện nay. Các kiến nghị của bài viết nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và nâng cao chất lượng, hiệu quả xét xử của Tòa án trong bối cảnh cải cách tư pháp.
TAND quận Hai Bà Trưng, Hà Nội xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Nguyễn Thanh Lâm.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Tòa án nhân dân tối cao công bố bản Quyết định giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn
-
Quyền yêu cầu cung cấp chứng cứ của người khởi kiện theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 - bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Bình luận