Nguyễn Tấn Th phạm tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Sau khi nghiên cứu bài viết “Không có người thực hiện hành vi phạm tội, xử lý tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" được không?” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiếu đăng ngày 19/7, tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất.
Hành vi của Nguyễn Tấn Th đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS.
Tại mục 8 Công văn số 64/TAND-PC ngày 03/4/2019 của TÀNTC có nội dung giải đáp như sau:“Theo quy định tại Điều 323 của Bộ luật Hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
Theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT-BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNDTC-TANDTC ngày 30-11-2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, VKSNDTC, TANDTC hướng dẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có thì: “1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ...) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua); 2. “Biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có ” là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
Như vậy, theo quy định tại Điều 323 của BLHS và hướng dẫn nêu trên thì mặt chủ quan của tội phạm này chỉ bắt buộc người có hành vi chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết tài sản đó do người khác thực hiện hành vi phạm tội mà có, mà không buộc người tiêu thụ, chứa chấp phải biết rõ ai là người đã trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội để có được tài sản đó và họ đã bị xử lý hình sự hay chưa…”.
Trong trường hợp mà tác giả đưa ra, việc chị H bị mất trộm chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu đen, biển số 79C1-609.XX với giá trị 18,4 triệu đồng là có thật. Vì vậy, mặc dù chưa xác định được ai là người thực hiện hành vi phạm tội nhưng có cơ sở xác định đã có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản xảy ra làm căn cứ để khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 143 BLHS. Như vậy, chiếc xe mô tô nêu trên là tài sản do trộm cắp mà có và cơ quan chức năng đã phát hiện, thu giữ chiếc xe này tại phòng trọ của Nguyễn Tấn Th.
Nguyễn Tấn Th biết rõ nguồn gốc chiếc xe là do phạm tội mà có nhưng vẫn cố tình chứa chấp để tiêu thụ. Do đó, Th phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 của BLHS.
Trên đây là quan điểm của tôi đối với tình huống nêu trên, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án- Ảnh MH
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khởi kiện không đúng bị đơn trong vụ án dân sự - Thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện
-
Tạm thời không tuyển dụng công chức, giảm tối thiểu 5 bộ, 2 cơ quan thường trực Chính phủ
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
Chủ tịch nước Lương Cường thăm và làm việc với Tòa án nhân dân tối cao
Bình luận