Bình luận Án lệ số 67/2023/AL về người được nhận hiện vật khi chia tài sản chung

Án lệ số 67/2023/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 18 tháng 8 năm 2023 và được công bố theo Quyết định 364/QĐ-CA ngày 01 tháng 10 năm 2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

1. Khái quát nội dung của án lệ

- Tình huống án lệ: Trong vụ án chia tài sản chung là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, một bên là người cao tuổi đã tạo lập, quản lý và sử dụng nhà đất ổn định, lâu dài, có nguyện vọng nhận nhà đất và thanh toán giá trị phần tài sản của người còn lại cho người đó. Nhà đất không thể chia được bằng hiện vật.

- Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải quyết định giao nhà đất cho người cao tuổi và người cao tuổi phải thanh toán giá trị phần tài sản của người còn lại cho người đó.

Quy định của pháp luật có liên quan đến án lệ: Điều 209 và Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Tóm tắt nội dung liên quan đến Án lệ số 67[1]:

[1] Nhà đất thửa số 57-2, tờ bản đồ số 33, tại tổ 1, khu xóm B, thị trấn V, huyện X, Tp. Hà Nội có nguồn gốc là của vợ chồng cụ Phạm Ngọc T, cụ Nguyễn Thị Đ, được Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2005 diện tích 62,68msử dụng riêng và 21,3m2 sử dụng chung mang tên cụ T, cụ Đ.

[2] Ngày 12/3/2012, tại Văn phòng công chứng M, cụ T và cụ Đ lập di chúc chung có nội dung cho cháu trai là anh Phạm Ngọc H (là cháu nội của hai cụ) có toàn quyền sử dụng, sang tên khối tài sản nhà đất nêu trên của hai cụ. Sau khi cụ T chết, ngày 26/10/2019, tại Văn phòng công chứng Q, cụ Đ và anh H lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có nội dung anh H được hưởng toàn bộ phần di sản thừa kế của cụ T để lại; cụ Đ và anh H là đồng sở hữu, sử dụng diện tích nhà đất này và được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích 84m2, trong đó có 62,7m2 sử dụng riêng (đo thực tế là 66,6m2) và 21,3m2 ngõ đi chung (đo thực tế là 22,2m2), thửa số 57-2, tờ bản đồ số 33 mang tên cụ Đ, anh H.

[3] Theo Biên bản xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 14/5/2020, thửa đất số 57-2 phần diện tích đất sử dụng riêng có kích thước chiều rộng phía giáp ngõ đi chung là 3,56m; chiều rộng phía sau là 3,67m; trên đất có ngôi nhà 2,5 tầng và nhà cấp 4. Theo Văn bản số 1101/UBND-TTPTQĐ ngày 03/6/2020, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì xác định, thửa số 57-2 bị thu hồi diện tích là 11,2m2, diện tích sử dụng còn lại là 55,0m2.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, cụ Đ và anh H đều có nguyện vọng được nhận nhà đất và thanh toán giá trị cho nhau. Tuy nhiên, diện tích nhà đất có nguồn gốc là của vợ chồng cụ Đ, cụ T tạo lập và hai cụ sinh sống trên đất từ năm 1980; sau khi cụ T chết, cụ Đ vẫn quản lý, sử dụng, thờ cúng cụ T; năm 2016, anh H mới chuyển đến sinh sống cùng cụ Đ và không tạo lập được tài sản nào trên đất. Cụ Đ cho rằng, thực tế cụ và anh H không thể tiếp tục sống chung nhà nên có nguyện vọng được nhận nhà và thanh toán tiền cho anh H; các con của cụ Đ, cụ T là bà Phạm Thị Lan A, bà Phạm Thị Hải Y, bà Phạm Thị T1, bà Phạm Thị T2 đề nghị giao nhà đất cho cụ Đ để cụ có chỗ ở, có nơi thờ cúng cụ T cho đến khi cụ qua đời. Xét thấy cụ Đ đã cao tuổi, sức yếu, có hạn chế trong việc thay đổi, tạo lập chỗ ở khác nên việc giao nhà đất cho cụ Đ sở hữu, sử dụng và cụ Đ thanh toán cho anh H số tiền 1.390.198.415 đồng như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với nguồn gốc và quá trình hình thành khối tài sản chung. Anh Phạm Ngọc H được hưởng giá trị 1/2 tài sản chung nói trên đủ để tạo lập chỗ ở mới.

- Nội dung của án lệ:

“[2] Ngày 12/3/2012, tại Văn phòng công chứng M, cụ T và cụ Đ lập di chúc chung có nội dung cho cháu trai là anh Phạm Ngọc H (là cháu nội của hai cụ) có toàn quyền sử dụng, sang tên khối tài sản nhà đất nêu trên của hai cụ. Sau khi cụ T chết, ngày 26/10/2019, tại Văn phòng công chứng Q, cụ Đ và anh H lập Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế có nội dung anh H được hưởng toàn bộ phần di sản thừa kế của cụ T để lại; cụ Đ và anh H là đồng sở hữu, sử dụng diện tích nhà đất này và được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất diện tích 84m2, trong đó có 62,7m2 sử dụng riêng (đo thực tế là 66,6m2) và 21,3m2 ngõ đi chung (đo thực tế là 22,2m2), thửa số 57-2, tờ bản đồ số 33 mang tên cụ Đ, anh H.

[3] Theo Biên bản xem xét và thẩm định tại chỗ ngày 14/5/2020, thửa đất số 57-2 phần diện tích đất sử dụng riêng có kích thước chiều rộng phía giáp ngõ đi chung là 3,56m; chiều rộng phía sau là 3,67m; trên đất có ngôi nhà 2,5 tầng và nhà cấp 4. Theo Văn bản số 1101/UBND-TTPTQĐ ngày 03/6/2020, Ủy ban nhân dân huyện Thanh Trì xác định, thửa số 57-2 bị thu hồi diện tích là 11,2m2, diện tích sử dụng còn lại là 55,0m2.

[4] Trong quá trình giải quyết vụ án, cụ Đ và anh H đều có nguyện vọng được nhận nhà đất và thanh toán giá trị cho nhau. Tuy nhiên, diện tích nhà đất có nguồn gốc là của vợ chồng cụ Đ, cụ T tạo lập và hai cụ sinh sống trên đất từ năm 1980; sau khi cụ T chết, cụ Đ vẫn quản lý, sử dụng, thờ cúng cụ T; năm 2016, anh H mới chuyển đến sinh sống cùng cụ Đ và không tạo lập được tài sản nào trên đất. Cụ Đ cho rằng, thực tế cụ và anh H không thể tiếp tục sống chung nhà nên có nguyện vọng được nhận nhà và thanh toán tiền cho anh H; các con của cụ Đ, cụ T là bà Phạm Thị Lan A, bà Phạm Thị Hải Y, bà Phạm Thị T1, bà Phạm Thị T2 đề nghị giao nhà đất cho cụ Đ để cụ có chỗ ở, có nơi thờ cúng cụ T cho đến khi cụ qua đời. Xét thấy cụ Đ đã cao tuổi, sức yếu, có hạn chế trong việc thay đổi, tạo lập chỗ ở khác nên việc giao nhà đất cho cụ Đ sở hữu, sử dụng và cụ Đ thanh toán cho anh H số tiền 1.390.198.415 đồng như quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là phù hợp với nguồn gốc và quá trình hình thành khối tài sản chung. Anh Phạm Ngọc H được hưởng giá trị 1/2 tài sản chung nói trên đủ để tạo lập chỗ ở mới."

2. Bình luận Án lệ số 67

2.1. Tính cấp thiết của việc ban hành Án lệ số 67 trong thực tiễn xét xử

Án lệ là một nguồn luật mới được chính thức thừa nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cải cách tư pháp[2]. Theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Án lệ được định nghĩa là “Những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án … được Hội đồng Thẩm phán TANDTC lựa chọn và được Chánh án TANDTC công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”[3]. Do đó, Án lệ trở thành khuôn mẫu pháp lý có tính chuẩn mực cho những trường hợp tương tự sau này. Trong bối cảnh hệ thống pháp luật Việt Nam đang ngày càng được hoàn thiện, Án lệ đã được công nhận là một nguồn pháp luật quan trọng, góp phần thống nhất và minh bạch trong hoạt động xét xử. Án lệ số 67, được Hội đồng Thẩm phán TANDTC thông qua là một minh chứng cho vai trò của Án lệ trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự phức tạp.

Án lệ số 67 liên quan đến việc chia tài sản chung là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, trong đó một bên là người cao tuổi đã tạo lập, quản lý và sử dụng nhà đất ổn định, lâu dài, có nguyện vọng nhận nhà đất và thanh toán giá trị phần tài sản của người còn lại. Tình huống này đặt ra nhiều vấn đề pháp lý cần được phân tích sâu sắc, đặc biệt là trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và nguyên tắc bảo vệ người yếu thế trong xã hội.

Vụ án này liên quan đến việc chia tài sản chung (nhà và đất) giữa hai chủ sở hữu (một bên là người cao tuổi đã tạo lập và sử dụng lâu dài khối tài sản và một bên là người trẻ tuổi mới thụ hưởng tài sản này); tình huống pháp lý và giải pháp của Án lệ số 67 có tính điển hình, bổ sung hướng dẫn thực tiễn cho các trường hợp chia tài sản chung phức tạp. Bởi lẽ, thực tiễn xét xử cho thấy, việc phân chia tài sản chung, đặc biệt là tài sản chung là vật có giá trị hoặc có tính chất đặc biệt, luôn là một vấn đề phức tạp trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự. Các tranh chấp thường xoay quanh việc xác định phần quyền của mỗi đồng sở hữu và phương thức chia tài sản sao cho vừa đảm bảo quyền lợi của các bên, vừa phù hợp với quy định của pháp luật. Án lệ số 67 đã đề cập đến một khía cạnh cụ thể trong quá trình chia tài sản chung, đó là việc xác định người được ưu tiên nhận hiện vật. Vì vậy, việc phân tích Án lệ số 67 dưới góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý là cần thiết để làm rõ cơ sở pháp lý, những lưu ý khi áp dụng các vụ án tương tự trong thực tiễn xét xử.

2.2. Những cơ sở lý luận cho việc ban hành Án lệ số 67

Quyền sở hữu chung bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung. Khi chia tài sản chung, mục tiêu là phân định quyền sở hữu riêng đối với các phần tài sản đã được chia. Việc ưu tiên giao hiện vật cho một đồng sở hữu, đồng thời bù trừ giá trị cho những người khác, là một phương thức cụ thể để thực hiện quyền định đoạt tài sản chung một cách công bằng trong những trường hợp nhất định. Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung theo phần tại Điều 209, trong đó mỗi chủ sở hữu có quyền, nghĩa vụ tương ứng với phần quyền sở hữu của mình.

Điều 219 BLDS 2015 quy định, trong trường hợp sở hữu chung có thể phân chia, mỗi chủ sở hữu đều có quyền yêu cầu chia tài sản chung; nếu tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật thì chủ sở hữu yêu cầu chia có quyền bán phần quyền sở hữu của mình. Những quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án xem xét yêu cầu chia tài sản chung, đồng thời cho phép giải quyết khi tài sản không thể chia như hiện vật. Nguyên tắc cơ bản là việc chia tài sản phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các đồng sở hữu một cách công bằng và hợp lý. Từ đó có thể hiểu, Bộ luật Dân sự năm 2015 nhấn mạnh nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yếu thế trong xã hội, bao gồm người cao tuổi. Việc áp dụng nguyên tắc này trong xét xử nhằm đảm bảo công bằng và nhân đạo, phù hợp với truyền thống đạo lý của dân tộc.

Bên cạnh đó, các nguyên tắc pháp lý cơ bản cũng được vận dụng. Bộ luật Dân sự ghi nhận nguyên tắc bình đẳng, công bằng và bảo vệ người yếu thế. Ví dụ tại Điều 3 BLDS 2015 quy định: “Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản”[4]. Nguyên tắc này đòi hỏi các chủ thể tham gia quan hệ dân sự phải được đối xử công bằng, không ai có quyền lợi ưu tiên vô lý. Do đó, trong thực tiễn xét xử vụ án dân sự, Tòa án cần chú trọng ưu tiên bảo vệ người yếu thế, nhất là người cao tuổi, người tàn tật, hạn chế kinh tế… trong những tình huống cụ thể. Nguyên tắc công bằng và bảo vệ người yếu thế là mục tiêu pháp lý để đưa ra các giải pháp nhân đạo và hợp lý trong tranh chấp chia tài sản chung.

Trong thực tiễn xét xử nhận thấy, nhiều vụ án dân sự liên quan đến chia tài sản chung gặp khó khăn khi tài sản không thể chia được bằng hiện vật. Việc ban hành Án lệ số 67 nhằm hướng dẫn các Tòa án giải quyết những trường hợp tương tự một cách thống nhất và hợp lý. Giải pháp pháp lý trong Án lệ số 67 tập trung vào tình huống một trong các đồng sở hữu có nhu cầu thực tế, khả năng quản lý, sử dụng hiệu quả hơn đối với một tài sản chung cụ thể và Tòa án đã đưa ra phán quyết ưu tiên giao hiện vật đó cho người này, đồng thời có sự bù trừ giá trị cho các đồng sở hữu khác. Từ phân tích của Án lệ số 67, có thể thấy cơ sở lý luận cho việc ưu tiên giao hiện vật cho một đồng sở hữu xuất phát từ các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, về nhu cầu sử dụng trên thực tế và tính cấp thiết: Một đồng sở hữu có nhu cầu sử dụng tài sản đó cho mục đích sinh hoạt, sản xuất kinh doanh chính đáng và không thể thay thế bằng tài sản khác.

Thứ hai, về khả năng quản lý, khai thác hiệu quả hơn: Một đồng sở hữu có khả năng chuyên môn, điều kiện kinh tế tốt hơn để quản lý, khai thác tài sản, mang lại lợi ích kinh tế cao hơn cho tất cả các bên.

Thứ ba, về gắn bó tình cảm, giá trị tinh thần đối với tài sản: Trong một số trường hợp, một đồng sở hữu có mối gắn bó tình cảm đặc biệt hoặc tài sản mang giá trị tinh thần lớn đối với họ.

Thứ tư, tránh gây khó khăn, thiệt hại lớn hơn nếu chia bằng cách khác: Việc chia hiện vật cho một người có thể tránh được tình trạng tài sản bị chia nhỏ, khó sử dụng hoặc bị giảm giá trị đáng kể tài sản.

2.3. Phân tích các nội dung của Án lệ số 67

Án lệ số 67 xuất phát từ vụ tranh chấp chia tài sản chung là quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất có diện tích 84m² (gồm 62,7m² đất ở và 21,3m² ngõ đi chung, trị giá 2,78 tỷ đồng) giữa cụ Nguyễn Thị Đ (người cao tuổi) và anh Phạm Ngọc H. Tài sản này ban đầu là do cụ Đ và chồng cụ tạo lập, hai người cùng sở hữu từ năm 1980. Sau khi chồng cụ Đ qua đời, cụ Đ một mình quản lý, sử dụng ổn định khối tài sản này. Đến năm 2016, anh H (cháu trai) chuyển đến ở chung và chưa góp phần tạo lập tài sản nào. Do mâu thuẫn gia đình, các bên nhận định không thể tiếp tục sống chung, nên cụ Đ có nguyện vọng được nhận toàn bộ nhà đất và thanh toán giá trị phần tài sản cho anh H; con cháu trong gia đình cũng đề nghị trao nhà đất cho cụ Đ để cụ có chỗ ở, có nơi thờ cúng cho chồng sắp qua đời.

Xét thấy cụ Đ đã cao tuổi, sức khỏe yếu, khó khăn trong việc tìm nơi ở khác; đồng thời nhà đất không thể chia được về hiện vật (không thể ngăn thành hai phần riêng rẽ hợp lý), Tòa án cấp sơ thẩm và bản án giám đốc thẩm đều giao toàn bộ nhà đất cho cụ Đ sở hữu, sử dụng và buộc cụ Đ thanh toán cho anh H 1.390.198.415 đồng (tương đương giá trị 1/2 khối tài sản chung). Hướng xử lý này căn cứ vào Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015 cho phép xử lý khi tài sản chung không thể chia được bằng hiện vật: Trong trường hợp chủ sở hữu yêu cầu chia, Tòa án có thể buộc người đó chuyển nhượng phần quyền sở hữu của mình nhằm thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Ở đây, cụ Đ ở địa vị người được nhận hiện vật, cụ phải thanh toán đúng giá trị phần của anh H. Hội đồng Thẩm phán đánh giá đây là giải pháp phù hợp với nguồn gốc và quá trình hình thành tài sản chung, đồng thời đảm bảo công bằng cho các bên: Anh H được nhận đủ giá trị 1/2 tài sản chung (đủ để tạo lập chỗ ở mới), còn cụ Đ được ở lại nơi sinh sống lâu dài và thực hiện trách nhiệm thanh toán.

Giá trị hướng dẫn xét xử của Án lệ số 67 thể hiện qua tính khả thi và công bằng của giải pháp đưa ra, cụ thể Án lệ số 67 khẳng định nguyên tắc thực hiện quyền của chủ sở hữu chung theo Điều 219 Bộ luật Dân sự năm 2015: Khi tài sản chung không thể chia thửa hiện vật, Tòa án buộc người có yêu cầu chia tài sản nhận hiện vật phải thanh toán giá trị phần cho những người còn lại. Án lệ số 67 cũng nhấn mạnh việc xét đến hoàn cảnh khách quan của người yêu cầu chia (ở đây là người cao tuổi), nhằm bảo đảm tính nhân đạo và khả thi khi áp dụng án lệ. Các nhận định của Tòa án trong Án lệ số 67 trở thành quy chuẩn pháp lý tham khảo cho các trường hợp tương tự về sau.

2.4. Một số lưu ý khi giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến chia tài sản chung tương tự Án lệ số 67

Khi áp dụng Án lệ số 67 về việc ưu tiên giao hiện vật khi chia tài sản chung các vụ án tương tự, cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, về điều kiện áp dụng Án lệ số 67: Án lệ số 67 chỉ có thể áp dụng cho các trường hợp có cùng tình huống pháp lý cơ bản như: Tài sản chung là bất động sản không thể chia hiện vật, có sự bất cân xứng về hoàn cảnh giữa các chủ sở hữu (ví dụ một bên là người cao tuổi, đã đóng góp tạo lập tài sản, bên kia chưa đóng góp hoặc sức khỏe, điều kiện sống của người cao tuổi không cho phép tìm nơi ở mới). Các vụ án không thỏa mãn các yếu tố tương tự thì Án lệ số 67 không có tính bắt buộc. Cần lưu ý theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ, Án lệ số 67 chỉ được nghiên cứu, áp dụng sau 30 ngày kể từ ngày công bố và phải viện dẫn tình huống pháp lý tương tự để đảm bảo tính thống nhất[5].

Thứ hai, khi áp dụng Án lệ số 67, Tòa án phải cân nhắc kỹ các yếu tố cụ thể của từng vụ án. Điều quan trọng là xác định nguồn gốc và quá trình hình thành khối tài sản chung (ai là người tạo lập, đóng góp công sức, tài chính đầu tư ban đầu). Cần đánh giá rõ vai trò và hoàn cảnh của mỗi chủ sở hữu: Nếu một bên là người cao tuổi, người yếu thế hoặc đã đóng góp chính cho tài sản chung (đặc biệt tài sản hình thành từ trước), thì giải pháp ưu tiên trao tài sản cho họ và buộc thanh toán cho người còn lại có thể hợp lý. Ngoài ra, cần đảm bảo quyền lợi của bên còn lại: Số tiền được nhận phải tương ứng đúng với giá trị phần của họ.

Thứ ba, tránh lạm dụng Án lệ số 67: Án lệ số 67 chỉ áp dụng trong các vụ án có tình huống pháp lý tương tự rõ ràng. Tòa án không nên căn cứ hoàn toàn Án lệ số 67 để thay thế hoàn toàn Luật định; trong những trường hợp khác biệt thì cần căn cứ pháp luật và hoàn cảnh cụ thể để quyết định. Đồng thời, mặc dù Án lệ số 67 đã công bố có giá trị bắt buộc, nhưng nếu giải pháp ấy không còn phù hợp với hiện trạng mới hoặc có căn cứ khác chi phối, Tòa án có thể không tuân theo Án lệ số 67, miễn là nêu rõ lý do trong bản án[6]. Việc tiếp cận Án lệ số 67 cần thận trọng, đảm bảo tính công bằng và nhất quán trong xét xử.

Thứ tư, xác định rõ căn cứ ưu tiên: Tòa án cần xác định rõ ràng và thuyết phục các căn cứ để ưu tiên giao hiện vật cho một đồng sở hữu, dựa trên các yếu tố đã phân tích ở trên (nhu cầu thực tế, khả năng quản lý, giá trị tinh thần, hiệu quả kinh tế, tránh thiệt hại). Việc ưu tiên giao hiện vật cho một người không được gây thiệt hại đến quyền lợi của các đồng sở hữu khác. Cần đảm bảo việc bù trừ giá trị phần tài sản mà họ không nhận được một cách đầy đủ và thỏa đáng, có thể thông qua định giá tài sản một cách độc lập và khách quan. Mặt khác, Tòa án cần lắng nghe và xem xét ý kiến của tất cả các đồng sở hữu về phương án chia tài sản, đặc biệt là về việc giao nhận hiện vật. Bên cạnh đó, việc ưu tiên giao hiện vật nên được xem xét cẩn trọng và chỉ áp dụng trong những trường hợp thực sự có căn cứ xác đáng, tránh việc tạo ra sự bất bình đẳng hoặc cảm giác bị thiệt thòi cho các đồng sở hữu khác. Mỗi vụ án chia tài sản chung có những đặc thù riêng nên việc áp dụng án lệ cần linh hoạt, phù hợp với tình tiết cụ thể của từng vụ án.

Kết luận

Án lệ số 67 khẳng định vai trò quan trọng của Án lệ trong việc thống nhất áp dụng pháp luật dân sự và bảo đảm công bằng trong xét xử. Trong vụ án phân chia tài sản chung có yếu tố người cao tuổi này, Án lệ số 67 đã bổ sung hướng dẫn trong thực tiễn như sau: Cho phép Tòa án trao tài sản cho bên yêu cầu nhận hiện vật (người cao tuổi) và buộc người đó thanh toán giá trị phần cho bên còn lại như hướng dẫn tại Điều 219 BLDS 2015. Giải pháp này vừa đảm bảo tính khả thi (bảo toàn quyền lợi chỗ ở của người yếu thế) vừa phù hợp nguồn gốc hình thành tài sản. Án lệ số 67 đã cho thấy án lệ không chỉ là các giải pháp pháp lý mẫu mực mà còn mang tính nhân đạo và công bằng[7]. Về lâu dài, việc phát triển án lệ sẽ giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật, hướng đến mục tiêu giải quyết những vấn đề pháp lý mới phát sinh trong xã hội.

Án lệ số 67 sẽ là một tiền lệ quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung, đặc biệt là trong việc xác định người được ưu tiên nhận hiện vật. Việc phân tích Án lệ số 67 dưới góc độ nghiên cứu khoa học pháp lý giúp làm rõ cơ sở lý luận, những lưu ý khi áp dụng và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng việc áp dụng Án lệ số 67 cần linh hoạt, dựa trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự và bối cảnh cụ thể của từng vụ án, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các đồng sở hữu.

 

BÙI AI GIÔN (TAND khu vực 13 - TP.HCM) - MẠC THỊ THUỶ (TAND khu vực 9 - Hải Phòng)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Án lệ số 67/2023/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 18 tháng 8 năm 2023 và được công bố theo Quyết định 364/QĐ-CA ngày 01 tháng 10 năm 2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

3. Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Vũ Thị Ngọc Dung và Nguyễn Đức Vũ, “Bàn về mối quan hệ giữa Văn bản quy phạm pháp luật và Án lệ”, https://kiemsat.vn/ban-ve-moi-quan-he-giua-van-ban-quy-pham-phap-luat-va-an-le-65714.html#:~:text=%C3%81n%20l%E1%BB%87%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9c%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c,ra%20ki%E1%BA%BFn%20ngh%E1%BB%8B%20ho%C3%A0n%20thi%E1%BB%87n, truy cập ngày 10/5/2025.

5. Đỗ Thanh Trung, “Một số vấn đề lý luận về áp dụng và phát triển Án lệ”, https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-ap-dung-va-phat-trien-an-le11567.html#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20hi%E1%BB%87n%20nay%2C,%C3%A1p%20d%E1%BB%A5ng%20trong%20x%C3%A9t%20x%E1%BB%AD%E2%80%9D , truy cập ngày 15/5/2025.

6. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự Việt Nam, https://liendoanluatsu.org.vn/cac-nguyen-tac-co-ban-cua-phap-luat-dan-su-viet-nam/#:~:text=%C4%90%C3%A2y%20l%C3%A0%20m%E1%BB%99t%20nguy%C3%AAn%20t%E1%BA%AFc,h%E1%BB%87%20d%C3%A2n%20s%E1%BB%B1%20th%E1%BB%83%20hi%E1%BB%87n, truy cập ngày 15/5/2025.


[1] Phần nội dung của vụ án, nhận định của Tòa án và Quyết định của Tòa án xem cụ thể tại Án lệ số 67/2023/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào ngày 18 tháng 8 năm 2023 và được công bố theo Quyết định 364/QĐ-CA ngày 01 tháng 10 năm 2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

[2] Vũ Thị Ngọc Dung và Nguyễn Đức Vũ, “Bàn về mối quan hệ giữa Văn bản quy phạm pháp luật và Án lệ”, https://kiemsat.vn/ban-ve-moi-quan-he-giua-van-ban-quy-pham-phap-luat-va-an-le-65714.html#:~:text=%C3%81n%20l%E1%BB%87%20ch%C3%ADnh%20th%E1%BB%A9c%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c,ra%20ki%E1%BA%BFn%20ngh%E1%BB%8B%20ho%C3%A0n%20thi%E1%BB%87n, truy cập ngày 10/5/2025.

[3] Đỗ Thanh Trung, “Một số vấn đề lý luận về áp dụng và phát triển Án lệ”, https://tapchitoaan.vn/mot-so-van-de-ly-luan-ve-ap-dung-va-phat-trien-an-le11567.html#:~:text=%E1%BB%9E%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20hi%E1%BB%87n%20nay%2C,%C3%A1p%20d%E1%BB%A5ng%20trong%20x%C3%A9t%20x%E1%BB%AD%E2%80%9D , truy cập ngày 15/5/2025.

[5] Đỗ Thanh Trung, tlđd.

[6] Đỗ Thanh Trung, tlđd.

[7] Vũ Thị Ngọc Dung - Nguyễn Đức Vũ, tlđd.

Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm vụ án ly hôn- Ảnh: THC.