Cần xác định các đối tượng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Sau khi nghiên cứu bài viết “Các đối tượng phạm tội gì?” của tác giả ThS. Phạm Đức Anh (Tòa án quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội) đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 18/6/2025, tôi đồng tình với quan điểm thứ ba, cần xác định các đối tượng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:…”.

Như vậy, để xác định các đối tượng phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì cần làm rõ các yếu tố cấu thành của tội phạm này, cụ thể:

Về mặt khách quan, để xác định hành vi phạm tội có thỏa mãn yêu cầu về mặt khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không cần làm rõ các nội dung sau:

Thứ nhất, cần làm rõ về hành vi phạm tội: Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều luật yêu cầu phải có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản.

Việc dùng thủ đoạn gian dối ở đây được xác định là việc người thực hiện hành vi phạm tội đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng hành động … . Ví dụ: người phạm tội lợi dụng mối quan hệ thân quen nói là mượn xe máy để đi đón con và được chủ sở hữu xe máy tin tưởng giao xe, nhưng sau khi lấy được xe lại đem bán lấy tiền tiêu xài mà không mang trả lại xe cho chủ sở hữu).  

Việc dùng thủ đoạn gian dối này nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản và thực tế đã chiếm đoạt được tài sản. Việc chiếm đoạt tài sản ở đây được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Và việc chiếm đoạt tài sản này có mối quan hệ nhân quả với việc dùng thủ đoạn gian dối đã phân tích ở trên.

Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản tin và giao tài sản cho kẻ phạm tội.

Như vậy, dấu hiệu bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự.

Thứ hai, để thỏa mãn điều kiện xác định có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không còn cần xét đến yếu tố giá trị tài sản chiếm đoạt. Theo đó, giá trị tài sản chiếm đoạt theo quy định tại khoản 1 Điều 174 BLHS năm 2015 được quy định như sau: tài trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

- Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

- Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

Về khách thể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác.

Về mặt chủ quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý. Thông thường, đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra[1]. Bên cạnh đó, một điểm cần lưu ý là, xét về mặt  ý chí của người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì thường nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo, đây là điểm để phân biệt với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Vì đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì ý định chiếm đoạt tài sản cũng phát sinh sau khi nhận tài sản thông qua một hình thức giao dịch nhất định. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu sau khi có được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng (như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản).

Về mặt chủ thể: chủ thể thực hiện tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là chủ thể thường, tức là chỉ cần người đó thỏa mãn các điều kiện theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015.

Đối chiếu với nội dung tình huống mà tác giả Phạm Đức Anh đưa ra trao đổi thì thấy, các đối tượng L, S, H và T là nhân viên soát vé của Công ty TX đã có ý định chiếm đoạt tài sản từ đầu nên đã bàn bạc nhau để thống nhất cách thức thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Theo đó, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý số lượng vé cáp treo bán ra không ghi ngày của Ban quản lý nên các nhân viên soát vé là L, S, H và T đã bàn bạc thống nhất với A là nhân viên quầy bán vé tại ga đi nhằm giữ lại một số vé cáp treo chiều lên đã qua sử dụng để tiếp tục bán quay vòng cho hành khách, qua đó chiếm đoạt tiền của Công ty. Cụ thể: Ở giai đoạn kiểm soát vé tại ga đi, các nhân viên soát vé lợi dụng lúc khách đông đã không xé liên 3 nhằm giữ lại nguyên các liên vé và giao cho nhân viên bán vé tiếp tục bán lại cho khách tham quan.

Tổng số vé các đối tượng trên quay vòng là 541 vé, sau đó tiếp tục bán lại cho du khách để chiếm đoạt của Công ty TX số tiền 58.810.000 đồng.

Như vậy, ý định chiếm đoạt tài sản có từ đầu, sau đó  các đối tượng bàn bạc, thống nhất việc thực hiện hành vi bằng thủ đoạn gian dối khi giữ lại một số vé cáp treo chiều lên đã qua sử dụng để tiếp tục bán quay vòng cho hành khách, qua đó chiếm đoạt tiền của Công ty. Và thực tế, số tiền chiếm đoạt được là 58.810.000 đồng.

Như vậy, hành vi phạm tội của các đối tượng thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 BLHS năm 2015.

Rất mong nhận được ý kiến trao đổi của bạn đọc.

 

 

 

 

 

[1] Khoản 1 Điều 10 BLHS năm 2015.

PHẠM HOÀI NGÂN (TANDTC)

Ảnh: nguồn Internet