.jpg)
Cần xác định tư cách tố tụng là bị hại hay là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án?
Việc xác định tư cách tố tụng của các chủ thể bị xâm phạm về tài sản và quyền sở hữu nói chung trong các tội xâm phạm quyền sở hữu nói chung và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể này trong quá trình tố tụng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị hại, việc xác định thiệt hại và trách nhiệm dân sự của người phạm tội trong vụ án.
Tuy nhiên, không phải vụ án nào thì việc xác định tư cách tố tụng của các chủ thể trong vụ án cũng cũng được rõ ràng, dẫn đến đây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng. Trong bài viết này tác giả xin nêu ra một vụ án cụ thể để phân tích về vấn đề này và cùng trao đổi với bạn đọc.
1. Nội dung vụ án
Trong thời gian làm việc tại cửa hàng xe máy Honda, T1 thường xuyên gặp mặt, nói chuyện với nhân viên tư vấn kinh doanh của các Công ty tài chính nên biết được quy trình, thủ tục làm hồ sơ vay trả góp và biết được thông tin có nhiều khách hàng là người dân tộc thiểu số sau khi mua xe mô tô trả góp, không đóng tiền dẫn đến các Công ty tài chính không thu hồi được nợ, nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của các Công ty tài chính theo hình thức này. T1 đã bàn bạc với T2 cùng thực hiện, với phương thức, thủ đoạn như sau: T1 và T2 đưa ra thông tin đến các người dân trên địa bàn huyện K, tỉnh G về việc T1, T2 cho vay tiền với lãi suất thấp. Khi có người dân đến hỏi vay tiền, thì T1, T2 lợi dụng sự thiếu hiểu biết của người dân, dụ dỗ người vay tiền đến Cửa hàng xe máy làm hợp đồng mua xe mô tô trả góp thì mới được cho vay tiền. T1, T2 đưa ra thông tin gian dối về việc người vay tiền sẽ không phải chịu trách nhiệm đóng tiền trả góp hàng tháng làm cho người vay tiền tin tưởng và đồng ý làm hồ sơ trả góp mua xe máy. T1, T2 yêu cầu người vay tiền cung cấp thông tin cá nhân gồm: Căn cước công dân, chụp ảnh chân dung rồi T1 đưa cho người vay tiền một điện thoại di động đã được lắp sẵn sim (sim không chính chủ) và hướng dẫn cách trả lời khi Công ty tài chính gọi đến để kiểm tra, xác minh về hợp đồng vay và nguồn thu nhập.
Sau khi đến cửa hàng xe máy, người vay tiền làm theo hướng dẫn của T1, T2 để làm hồ sơ trả góp mua xe máy. Nếu Công ty tài chính đồng ý duyệt cho vay mua xe trả góp thì T1, T2 sẽ đưa cho người dân một khoản tiền (dao động từ 10% đến 30% giá trị xe) để thanh toán tiền trả trước cho Cửa hàng xe máy. Sau khi Cửa hàng xe máy bàn giao xe cho người vay tiền thì T1, T2 yêu cầu người vay tiền phải giao lại xe cho T1, T2. Sau đó, T1, T2 yêu cầu người vay tiền ký vào các hợp đồng bán xe mô tô soạn sẵn nhưng thực tế người vay không nhận được tiền như trong hợp đồng. Đồng thời, T1, T2 viết giấy vay tiền, yêu cầu người vay tiền ký nhận rồi mới đưa tiền cho người dân vay (số tiền mà T1, T2 cho vay dao động từ 01 triệu đến 10 triệu đồng).
Từ tháng 7/2023 đến tháng 10/2023, thông qua việc dụ dỗ 56 người dân (chủ yếu là người dân tộc thiểu số) đứng tên mua 64 xe mô tô trả góp tại các Cửa hàng xe máy trên địa bàn huyện K, tỉnh G, T1 và T2 làm cho các Công ty tài chính TNHH MB Shinsei, Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng SMBC, Công ty tài chính TNHH HD Saison, Công ty tài chính TNHH MTV Quốc tế Việt Nam JACCS tin tưởng nên đã giải ngân cho các Cửa hàng xe máy 1.518.606.500 đồng. Còn T1, T2 đã chiếm đoạt 64 xe mô tô này để bán cho người khác để thu lợi bất chính 1.212.850.000 đồng.
2. Một số vấn đề bàn luận
Trong vụ việc nêu trên, có ba nhóm chủ thể liên quan: (i) Các cửa hàng xe máy; (ii) Các công ty tài chính; (iii) Người mua trả góp.
Vấn đề đặt ra cho các cơ quan tiến hành tố tụng là phải xác định chủ thể nào là bị hại và chủ thể nào chỉ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Việc xác định tư cách đương sự trong vụ việc nêu trên hiện còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Các cửa hàng xe máy là bị hại; các công ty tài chính, người mua trả góp là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Các cửa hàng xe máy, người mua trả góp là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; các công ty tài chính là bị hại.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Các cửa hàng xe máy là bị đơn dân sự; các Công ty tài chính là nguyên đơn dân sự; người mua trả góp là bị hại.
Theo quan điểm của tác giả, cơ quan tiến hành tố tụng cần xác định các công ty tài chính là bị hại; các cửa hàng xe máy, người mua trả góp là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án như quan điểm thứ hai trên, bởi các lý do sau:
Thứ nhất, dấu hiệu đặc trưng trong mặt khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm hai hành vi là dùng thủ đoạn gian dối và chiếm đoạt tài sản của người bị hại, hành vi gian dối là thủ đoạn để thực hiện hành vi chiếm đoạt, còn hành vi chiếm đoạt là mục đích và là kết quả của hành vi lừa dối, trong đó mục đích chiếm đoạt phải có trước hành vi dùng thủ đoạn gian dối;
Trên thực tế hành vi gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hợp thành bởi hai yếu tố chính như sau:
(1) Người phạm tội đưa ra những thông tin gian dối. Hành vi này thể hiện là hành động có chủ đích của người phạm tội, được thực hiện bằng lời nói, hành động hoặc những biểu hiện khác nhằm cung cấp thông tin sai lệch về sự việc như nói có thành không, nói ít thành nhiều, nói xấu thành tốt, giả thành thật.
(2) Chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin tưởng vào những thông tin không đúng sự thật ấy trao tài sản cho người phạm tội.
Trở lại vụ án, T1 và T2 biết rõ những người có nhu cầu vay tiền của mình (phần lớn là người dân tộc thiểu số) đều không có nhu cầu mua xe máy trả góp, mà chỉ có nhu cầu vay tiền, nhưng để được cho vay tiền, T1 và T2 đã yêu cầu người có nhu cầu vay tiền đến Cửa hàng xe máy làm hợp đồng mua xe trả góp; yêu cầu những người này cung cấp thông tin cá nhân, chụp ảnh chân dung theo yêu cầu của công ty tài chính trong quy trình cho vay, rồi đưa cho người vay tiền một điện thoại di động đã được lắp sẵn sim (sim không chính chủ) hướng dẫn cách trả lời khi Công ty tài chính gọi đến để kiểm tra, xác minh về hợp đồng vay và nguồn thu nhập; bằng cách thức và thủ đoạn trên, T1 và T2 đã ngụy tạo nhu cầu vay vốn ảo của người dân, dẫn đến việc công ty tài chính giải ngân 1.518.606.500 đồng cho những nhu cầu vay ảo này thông qua việc thanh toán cho các cửa hàng xe máy tiền mua 64 xe mô tô; bản thân T1 và T2 biết rõ các cửa hàng xe máy chỉ giao xe cho bên mua khi đã nhận đủ tiền từ hình thức tín dụng của các công ty tài chính (các công ty tài chính trả thay người mua cho cửa hàng xe máy toàn bố số tiền mua xe, sau đó người mua sẽ trả tiền gốc và lãi hàng tháng cho các công ty tài chính tùy theo số tiền vay và thời hạn vay); đồng thời, biết rõ việc người mua xe không biết, không thể thanh toán cho các công ty tài chính theo hợp đồng vay trả góp và các công ty tài chính không thể thu hồi khoản tiền đã cho vay.
Như vậy, thông tin gian dối mà T1 và T2 đưa ra là “56 người dân (người muốn vay tiền) có nhu cầu vay vốn mua xe trả góp” và thông tin gian dối này là nhắm đến các Công ty tài chính, không phải nhắm đến người có nhu cầu vay tiền, cũng không phải nhắm đến các cửa hàng xe máy.
Các công ty tài chính tin tưởng vào nhu cầu vay vốn ảo của người dân do T1 và T2 ngụy tạo nên, đã giải ngân 1.518.606.500 đồng cho các cửa hàng xe máy để các cửa hàng này bàn giao xe cho người dân, rồi thay vì người mua tiếp nhận, sử dụng thì thực tế những chiếc xe này đã được chuyển giao cho T1 và T2, sau đó đã bị bán cho người thứ ba. Trong tội phạm “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, bên giao tài sản vì bị lừa mới là bị hại.
Thứ hai, Điều 62 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”.
Theo quy định đã viện dẫn trên, thì bị hại phải là chủ thể trực tiếp bị thiệt hại do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
Ở đây, tài sản bị chiếm đoạt là “tiền” chứ không phải “xe”; xe chỉ là phương tiện mà T1, T2 dùng để chuyển hóa lợi ích chiếm đoạt, bởi chuỗi dịch chuyển tài sản cho thấy, hành vi gian dối của T1, T2 dẫn đến việc các công ty tài chính giải ngân 1.518.606.500 đồng, về bản chất, thì quan hệ bị xâm hại là quan hệ tín dụng (các công ty tài chính giải ngân nhưng không thể thu hồi tiền cho vay), trong đó các công ty tài chính bị lừa để chuyển giao tài sản, tài sản này ngay lập tức bị chiếm đoạt thông qua việc các cửa hàng xe nhận đủ tiền, giao xe và các xe này sau đó được T1, T2 chiếm đoạt và bán cho người thứ ba, do đó 1.518.606.500 đồng đã giải ngân mà các công ty tài chính không thể thu hồi được, là thiệt hại trực tiếp từ hành vi gian dối của T1 và T2.
Cửa hàng xe máy bàn giao xe cho bên mua là nghĩa vụ của hợp đồng mua bán xe và để giao xe, Cửa hàng xe máy đã được nhận đủ tiền từ các công ty tài chính, quy trình mua bán xe trả góp đúng quy định, do đó, Cửa hàng xe máy không phải gánh chịu bất cứ thiệt hại nào.
Người mua xe trả góp thực tế không có nhu cầu mua xe, không nhận xe, việc giao kết hợp đồng mua xe với các cửa hàng xe máy là để được T1, T2 cho vay tiền, nếu mục đích của T1, T2 là chiếm đoạt xe của người mua xe trả góp, thì không phù hợp với diễn biến hành vi của T1, T2 trong suốt quá trình diễn ra vụ án, vì sau khi được cửa hàng xe máy giao xe, T1, T2 yêu cầu người mua ký hợp đồng bán xe mô tô do T1 soạn sẵn, nhưng người vay không nhận được tiền bán xe như trong hợp đồng; đồng thời, T1, T2 viết giấy vay tiền, yêu cầu người mua ký nhận rồi mới đưa tiền cho người dân vay. Do đó, người mua trả góp cũng không trực tiếp bị thiệt hại do tội phạm gây ra.
Tác giả rất mong nhận được sự trao đổi, bàn luận của bạn đọc và đồng nghiệp để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.
* Một số bản án thực tế bạn đọc có thể tham khảo có tình huống pháp lý tương tự:
1. Bản án số 07/2019/HS-ST ngày 17/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre,
https://congbobanan.toaan.gov.vn/3ta281217t1cvn/
2. Bản án số 91/2024/HS-ST ngày 11/4/2024 của Tòa án nhân dân TP. Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng,
https://congbobanan.toaan.gov.vn/3ta1477570t1cvn/
3. Bản án số 03/2022/HS-ST ngày 11/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình,
HĐXX Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn, Quảng Nam xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Nguyên Vỹ.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi về “tội gây rối trật tự công cộng” theo Điều 318 Bộ luật Hình sự
-
TAND Khu vực 5 - TP Đà Nẵng: Khẳng định bản lĩnh, vững bước cùng truyền thống 80 năm TAND
Bình luận