Công ty C là bị hại, Ngân hàng Z là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Sau khi nghiên cứu bài viết “Xác định bị hại trong một vụ án hình sự” của tác giả Quỳnh Nga và Hoàng Thị Nguyệt Nga, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 21 / 11 / 2019, tôi đồng tình với quan điểm của tác giả.

Từ nội dung vụ án, theo các tác giả có các quan điểm khác nhau về việc xác định bị hại. Cụ thể: Quan điểm thứ nhất: Xác định bị hại trong vụ án này là Ngân hàng Z. Những người theo quan điểm này xác định hành vi phạm tội xẩy ra khi A dùng thủ đoạn lập hồ sơ giả để đăng ký dịch vụ ngân hàng Internet Banking để rút tiền của bà B trong tài khoản ngân hàng Z và sau đó ngân hàng Z đã bồi thường cho bà B số tiền mà A đã rút là 50 triệu đồng. Vì vậy, ngân hàng Z chính là bị hại trong vụ án. Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Trong vụ án này phải xác định bị hại là Công ty C mới chính xác. Và các tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi căn cứ theo quy định tại Điều 61 BLTTHS năm 2015, với các lập luận về chủ thể, về thiệt hại.

Trên cơ sở nội dung vụ án, các quan điểm về việc xác định tư cách ai là bị hại trong vụ án, cụ thể: Ngân hàng Z hay Công ty C cũng như quan điểm của các tác giả. Tôi có quan điểm như sau:

Trước tiên, xác định thế nào là bị hại và thế nào là Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, điểm khác nhau căn bản, mấu chốt để phân biệt các tư cách tham gia tố tụng này là gì? Theo quy định tại Điều 61 BLTTHS 2015 quy định: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Như vậy, Bị hại trong vụ án hình sự là cá nhân hoặc tổ chức. Nếu như là cá nhân thì do bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại về thể chất, tinh thần, tài sản. Nếu là tổ chức thì do bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại, gây thiệt hại về tài sản, uy tín gây ra hoặc đe dọa gây ra. Các khách thể như thể chất, tinh thần, tài sản của cá nhân hay tài sản, uy tín của tổ chức phải là đối tượng của tội phạm. Thông qua việc tác động tới những đối tượng đó để xâm hại đến khách thể của tội phạm. Thiệt hại xảy ra là biểu hiện về mặt khách quan của tội phạm, phù hợp với mục đích của người phạm tội.

Còn Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định tại Điều 65 BLTTHS năm 2015 thì “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”. Theo quy định trên thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có thể là cá nhân và cũng có thể là cơ quan, tổ chức và họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến những quyết định của Tòa án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người hoặc cơ quan, tổ chức họ không tham gia vào việc thực hiện tội phạm hoặc có tham gia, nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng Tòa án phải xử lý quyền lợi, tài sản của họ vì liên quan đến tội phạm.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thường là: Chủ tài sản hay thông qua họ để người phạm tội chiếm đoạt tài sản, có thể nói họ như một công cụ, phương tiện để người phạm tội đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản; biến, chuyển hóa tài sản của người khác thành của mình. Qua phân tích cho thấy Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng có thể là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi của người phạm tội gây ra, song chúng không phải là đối tượng của tội phạm và thiệt hại xảy ra không phù hợp với mục đích của người phạm tội hoặc việc giải quyết vụ án đã ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Căn cứ vào mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại với hành vi mà người phạm tội đã thực hiện, nếu thiệt hại là kết quả trực tiếp của hành vi phạm tội phù hợp với mục đích của người phạm tội thì ai là chủ thể bị thiệt hại thì được xác định là bị hại.

Trở lại vụ án cho chúng ta thấy: Với tư cách A là nhân viên giao dịch của Ngân hàng Z. Bà B là khách hàng mở tài khoản tại Ngân hàng Z; trong quá trình mở tài khoản, giao dịch do quen biết nên bà B đã nhờ A quản lý tài khoản và tư vấn đầu tư trái phiếu tại Công ty C. Bà B đã đầu tư 50 triệu đồng để mua trái phiếu tại Công ty C. Như vậy, mối quan hệ giữa A và bà B chỉ giới hạn phạm vi của sự ủy quyền là quản lý tài khoản và tư vấn đầu tư, chứ không có sự ủy quyền về việc định đoạt như thế nào với sự đầu tư trái phiếu tại Công ty C của bà B. Việc, A đã giả chữ ký của bà B để ký hợp đồng bán lại trái phiếu cho Công ty C là việc làm không được phép, A không có thẩm quyền. Chính vì sự thiếu kiểm tra, sự tin tưởng nên Công ty C đã ký hợp đồng (thực tế chữ ký của bà B trên Hợp đồng là do A ký) và thanh toán tiền mua lại trái phiếu của bà B vào đúng tài khoản của bà B tại Ngân hàng Z. Tiếp đó, A đã dùng thủ đoạn lập hồ sơ giả (giả chữ ký của bà B) để đăng ký dịch vụ ngân hàng điện tử (Internet Banking) của bà B và rút hết khoản tiền 50 triệu đồng tiêu xài cá nhân.

Qua diễn biến hành vi ta thấy người bị thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội của A? Ở đây rõ ràng Công ty C. Chính Công ty C là người bị thiệt hại trực tiếp do hành vi giả mạo chữ ký của A để bán lại trái phiếu của bà B trong khi tài sản đó thuộc quyền định đoạt của của bà B nhưng là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của Công ty C theo hợp đồng đầu tư trái phiếu của bà B đối với Công ty C. Vì vậy, phải xác định Công ty C là bị hại trong vụ án. Bởi ngoài lý do như đã phân tích và các lý do mà các tác giả đã đưa ra, thì tôi xin phép được phân tích thêm ở khía cạnh sau:

Về hành vi thì A phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm hoàn thành từ điểm Công ty C đã ký hợp đồng và thanh toán tiền mua trái phiếu của bà B vào đúng tài khoản của bà B tại Ngân hàng Z (do A đã giả chữ của bà B ký trên hợp đồng bán lại trái phiếu cho Công ty C). Ở đây khách thể, đối tượng bị A xâm phạm chính là số tiền 50 triệu đầu tư trái phiếu mà bà B thông qua A đã đầu tư vào Công ty C. Khi đó Công ty C là người có thẩm quyền quản lý. A chỉ là người tư vấn và quản lý tài khoản và cũng không được bà B ủy quyền thực hiện việc bán hay không bán trái phiếu đó mà A đã làm giả chữ ký trên hợp đồng bán lại trái phiếu cho Công ty C và lập hồ sơ giả để rút tiền mà Công ty C thanh toán cho bà B. Chính vì vậy, người bị thiệt hại trực tiếp ở đây là Công ty C, do việc thiếu kiểm tra, tin tưởng hồ sơ nên đã bị A chiếm đoạt. Giữa hành vi và hậu quả có mối quan hệ trực tiếp với nhau.

Việc A thông qua Ngân hàng Z để nhận tiền từ việc mở tài khoản và làm giả hồ sơ của A để đăng ký dịch vụ Ngân hàng điện tử rồi từ đó rút tiền cho thấy Ngân hàng Z chẳng qua chỉ như là một kênh, một công cụ để A đạt được mục đích chiếm đoạt của mình. Chính vì vậy, trong vụ án này phải xác định Công ty C là bị hại trong vụ án. Còn Ngân hàng Z chỉ có thể xác định là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc có thể xác định là Bị đơn dân sự nếu trong trường hợp xác định A là người của pháp nhân gây thiệt hại, chiếm đoạt tài sản của Công ty C trong trường hợp khi thực hiện nhiệm vụ của pháp nhân là Ngân hàng Z giao.

Tuy nhiên, với dữ kiện từ nội dung vụ án, tôi cho rằng chỉ có thể xác định là Ngân hàng Z là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bởi lẽ, mặc dù trách nhiệm bồi thường không phải là của Ngân hàng Z nhưng Ngân hàng đã đứng ra bồi thường thay cho A cho nên, việc xác định Ngân hàng Z là Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án để Tòa án buộc A phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền mà Ngân hàng Z đã bồi thường thay cho bà B. Từ những phân tích trên, tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của tác giả bài viết

Trên đây là quan điểm của tôi về việc xác định bị hại trong vụ án hình sự cụ thể trên, xin được trao đổi với các tác giả và bạn đoc./.

Ths. ĐỖ NGỌC BÌNH ( TAQS Thủ đô Hà Nội)