Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Nghị định số 173/2024/NĐ-CP ngày 27/12/2024 trong việc xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu
Bài viết nêu các quan điểm xử lý khác nhau về hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu; đồng thời, đề xuất hoàn thiện pháp luật.
Đặt vấn đề
Nghị định số 173/2024/NĐ-CP ngày 27/12/2024 của Chính phủ bãi bỏ một phần Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện và bãi bỏ Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện (gọi tắt là Nghị định số 173) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/02/2025, dẫn đến nhiều ý kiến khác nhau về việc xử lý hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu (TLĐNL).
Theo đó, sau ngày 15/02/2025, TLĐNL không còn nằm trong danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, thì có làm giảm và mất hiệu lực đối với TLĐNL hay không? Hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL có bị xử lý hình sự hay không? Các bản án đã xét xử đối với hành vi liên quan đến TLĐNL trong thời gian từ ngày 15/02/2025 cho đến hiện nay có được áp dụng hồi tố hay không? Hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đối với hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL sau ngày 15/02/2025, dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác xét xử.
1. Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng
Nghị định số 173 đã chính thức có hiệu lực từ ngày 15/02/2025. Cụ thể, Nghị định này bãi bỏ Phụ lục II (Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh) ban hành kèm theo Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện và toàn bộ Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Như vậy, theo Nghị định số 173 thì TLĐNL không còn thuộc danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh theo pháp luật về quản lý thương mại. Mặc dù vậy, nhưng vẫn tồn tại quy định về xử lý hình sự với một số hành vi liên quan đến nhập lậu thuốc lá khi đạt mức số lượng nhất định, cụ thể:
Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2025) - sau đây gọi là BLHS năm 2015, quy định về “tội sản xuất, buôn bán hàng cấm”, trong đó có quy định buôn bán TLĐNL từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao đã có thể bị xử lý hình sự. Tương tự, Điều 191 BLHS năm 2015 quy định “tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm” vẫn có thể bị xử lý hình sự nếu bảo đảm đủ số lượng liệt kê của BLHS.
Tuy nhiên, vì hàng hóa (TLĐNL) không còn nằm trong Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh sau ngày 15/02/2025, nên tạo ra “khoảng trống pháp lý” trong việc xử lý hình sự. Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn của TANDTC đối với hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL sau ngày 15/02/2025, dẫn đến nhiều khó khăn trong công tác xét xử của Tòa án hai cấp như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Được áp dụng hồi tố đối với Nghị định số 173 theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo. Cụ thể, hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL sau ngày 15/02/2025 không còn là hàng cấm theo danh mục, nên không hình sự hóa các hành vi trên. Điều này cũng áp dụng cho các hành vi đã thực hiện trước ngày 15/02/2025, nhưng bị điều tra, truy tố và xét xử trong giai đoạn từ sau ngày 15/02/2025, với nhận định “hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội” do có sự thay đổi trong chính sách, pháp luật. Đề xuất kiến nghị những vụ việc đã xét xử bằng bản án có hiệu lực pháp luật sau ngày 15/02/2025, thì kiến nghị kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án. Còn đối với những vụ án đã xét xử, đang kháng cáo, thì Tòa án cấp phúc thẩm miễn trách nhiệm hình sự (TNHS) cho bị cáo. Khi đó, Tòa án phải ghi rõ trong bản án lý do của việc miễn TNHS, là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội đến mức phải xử lý hình sự; người được miễn TNHS không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN). Trường hợp người bị kết án, mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng người bị kết án chưa chấp hành hình phạt, hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn toàn bộ hình phạt; trường hợp người đang chấp hành hình phạt, hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại. Khi miễn chấp hành hình phạt, Tòa án phải ghi rõ trong quyết định miễn chấp hành hình phạt là do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người được miễn chấp hành hình phạt không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN. Những người đã chấp hành xong hình phạt, được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc hình phạt còn lại, thì đương nhiên được xóa án tích.
Trường hợp vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên tòa và Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của BLHS hiện hành, các quy định của pháp luật có liên quan, quyết định hủy bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án. Trường hợp người bị kết án mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, thì Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm rà soát, báo cáo ngay với người có thẩm quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị giám đốc thẩm bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và vụ án đang trong giai đoạn xét xử giám đốc thẩm hoặc xét xử tái thẩm, thì Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm căn cứ vào quy định của BLHS, các quy định của pháp luật có liên quan, quyết định hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.
Việc đình chỉ vụ án đối với các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán TLĐNL trong nội địa kể từ ngày 15/02/2025 là đình chỉ về mặt TNHS. Tòa án phải ghi rõ trong quyết định hoặc trong bản án lý do của việc đình chỉ là do chính sách hình sự mới mang tính nhân đạo của Nhà nước, đồng thời, người được đình chỉ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật TNBTCNN.
Trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án, Tòa án phải chuyển bản án, quyết định nêu trên kèm theo hồ sơ, tang vật, phương tiện vi phạm và đề nghị xử phạt vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, theo quy định tại Điều 63 của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2024, 2025).
Quan điểm thứ hai cho rằng: Không áp dụng hồi tố đối với Nghị định số 173, tức là, những hành vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL trước ngày 15/02/2025 vẫn bị xử lý theo quy định pháp luật, nên các bản án đã có hiệu lực pháp luật thì phải được thi hành. Chỉ không xử lý hình sự đối với các hình vi buôn bán, vận chuyển, tàng trữ TLĐNL sau ngày 15/02/2025.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (gọi tắt là Nghị định số 98) vẫn còn có hiệu lực pháp luật. Cụ thể, tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị định số 98 quy định: “… b) Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 50 bao đến dưới 100 bao”. Điều 190 và 191 BLHS năm 2015 vẫn quy định về hành vi “buôn bán, sản xuất hàng cấm” và hành vi “tàng trữ, vận chuyển hàng cấm”. Nghị định số 173 lại là văn bản dưới luật, nên các hành vi vận chuyển, buôn bán, tàng trữ TLĐNL vẫn bị điều tra, truy tố, xét xử nếu áp dụng theo Nghị định số 98 và BLHS hiện hành.
2. Kiến nghị
Tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất, bởi Nghị định số 173 có hiệu lực, thì nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự là nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo phải được áp dụng. Nhưng, để áp dụng đúng và thống nhất quy định của pháp luật trong việc xử lý các hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán TLĐNL, thì vẫn cần văn bản hướng dẫn cụ thể của TANDTC.
Kết luận
Ngày nay, TLĐNL luôn là một trong những mặt hàng vi phạm phổ biến, kéo theo nhiều hệ lụy từ thất thu thuế, cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến nguy cơ gia tăng tội phạm buôn lậu ở khu vực biên giới và thị trường nội địa. Tuy nhiên, việc đấu tranh với hành vi buôn bán, vận chuyển TLĐNL đang đứng trước một thách thức pháp lý mới, khi hệ thống văn bản pháp luật có sự thay đổi quan trọng dẫn đến tồn tại những mâu thuẫn pháp lý. Vấn đề này cần nhanh chóng được các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị định số 173/2024/NĐ-CP ngày 27/12/2024 của Chính phủ bãi bỏ một phần Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ bãi bỏ một phần Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện và bãi bỏ Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
2. Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
3. Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 07/5/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định số 59/2006/NĐ-CP ngày 12/6/2006 hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
4. Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
5. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2024, 2025.
6. Công văn số 154/TANDTC-PC ngày 25/7/2017 của Tòa án nhân dân tối cao về việc xử lý hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu trong nội địa.
Lực lượng chức năng Vĩnh Long tăng cường bắt các vụ buôn bán thuốc lá nhập lậu - Nguồn: nhandan.vn.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tòa án nhân dân tối cao công bố các quyết định về công tác cán bộ
-
Thời hạn giải quyết đơn đề nghị xem xét bản án dân sự đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm - đề xuất, kiến nghị
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao biểu quyết thông qua 10 án lệ: Đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong áp dụng pháp luật
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
Bình luận