Mất khả năng thanh toán trong Luật Phá sản: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn từ quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản
Sau khi đọc bài viết “Bàn về căn cứ đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản từ tình huống cụ thể” của tác giả Thế Mỹ đăng ngày 28/11/2025, tôi xin đưa ra một số ý kiến trao đổi về bài viết.
1. Quy định pháp luật về khái niệm “mất khả năng thanh toán”
Khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã đưa ra khái niệm “mất khả năng thanh toán”: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
Đây không phải là một trong nhiều tiêu chí mà là tiêu chí duy nhất để xác định tình trạng mất khả năng thanh toán. Nhà làm luật đã lựa chọn một cách có chủ ý tiêu chí khách quan, dễ xác minh và không phụ thuộc vào đánh giá chủ quan: Hành vi không thanh toán nợ đến hạn trong thời hạn ba tháng. Luật không đề cập đến bất kỳ yếu tố nào khác như giá trị tài sản trên sổ sách kế toán, tỷ lệ giữa tổng tài sản và tổng nợ, hay tình trạng vốn chủ sở hữu.
Sự lựa chọn này của nhà làm luật không phải ngẫu nhiên mà xuất phát từ bản chất và mục đích của Luật Phá sản. Pháp luật phá sản không nhằm mục đích xác định liệu doanh nghiệp có giàu hay nghèo, có tài sản nhiều hay ít, mà nhằm giải quyết tình trạng doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với chủ nợ. Trọng tâm của pháp luật phá sản là bảo vệ quyền của chủ nợ khi nghĩa vụ thanh toán không được thực hiện, đồng thời tạo cơ chế để phân chia tài sản của doanh nghiệp một cách công bằng giữa các chủ nợ theo thứ tự ưu tiên quy định của pháp luật.
Mục 1 Công văn số 199/TANDTC-PC ngày 18/12/2020 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán bao gồm 02 trường hợp: Doanh nghiệp, hợp tác xã không có tài sản để thanh toán các khoản nợ; Doanh nghiệp, hợp tác xã có tài sản nhưng không thanh toán các khoản nợ”.
Công văn còn khẳng định: Theo đó, “mất khả năng thanh toán” không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài sản để trả nợ; mặc dù doanh nghiệp, hợp tác xã còn tài sản để trả nợ nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn cho chủ nợ thì vẫn coi là doanh nghiệp, hợp tác xã “mất khả năng thanh toán”.
Mục 24 tại Công văn còn khẳng định: “Việc doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh tốt, có lợi nhuận không có nghĩa là doanh nghiệp, hợp tác xã đó không mất khả năng thanh toán vì theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”.
2. Phân tích về nội dung tình huống trong bài viết
Từ lý luận và thực tiễn có thể thấy rằng quan điểm áp dụng tiêu chí “tài sản lớn hơn nhiều so với số nợ nên không mất khả năng trả nợ”, cụ thể: “Công ty T có tổng tài sản hơn 12.000 tỷ đồng, lớn hơn nhiều so với tổng nợ 94 tỷ đồng. Vì vậy, Công ty T có điều kiện để trả nợ cho các chủ nợ” là không thuyết phục.
Thứ nhất, quyết định đình chỉ trong bài đã áp dụng một tiêu chí hoàn toàn không có trong Luật Phá sản 2014. Luật không có quy định “doanh nghiệp không mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp có tài sản lớn hơn nợ”. Luật chỉ quy định một tiêu chí duy nhất: doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán, bất kể doanh nghiệp có bao nhiêu tài sản trên sổ sách.
Thứ hai, theo chúng tôi cần phân biệt rõ khái niệm: “Có tài sản” và “có khả năng thanh toán”.
“Có tài sản” là một khái niệm tĩnh, phản ánh giá trị được ghi nhận trên sổ sách kế toán theo các nguyên tắc kế toán. Giá trị này không phản ánh khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt trong thực tế. Tài sản có thể bao gồm bất động sản trong thị trường đóng băng không có người mua, máy móc thiết bị lạc hậu không còn giá trị sử dụng, tài sản đang trong tranh chấp pháp lý không thể giao dịch, hoặc tài sản đã bị thế chấp, kê biên cho các nghĩa vụ khác. Tất cả những tài sản này vẫn được ghi nhận với giá trị trên sổ sách nhưng không thể sử dụng để trả nợ.
“Có khả năng thanh toán” là một khái niệm động, phản ánh khả năng thực tế của doanh nghiệp trong việc chuyển đổi nguồn lực thành tiền mặt hoặc phương tiện thanh toán tương đương để trả nợ đúng hạn. Khả năng này phụ thuộc vào dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, khả năng huy động vốn từ chủ sở hữu hoặc tổ chức tín dụng, và quan trọng nhất là tính thanh khoản của tài sản - khả năng bán tài sản nhanh chóng để lấy tiền trả nợ.
Trong thực tiễn kinh doanh và pháp luật, một doanh nghiệp hoàn toàn có thể có tài sản trị giá lớn gấp nhiều lần nợ phải trả trên sổ sách nhưng vẫn mất khả năng thanh toán nếu không thể chuyển đổi tài sản đó thành tiền trong thời gian cần thiết. Điều này đặc biệt phổ biến trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bất động sản, nơi mà giá trị tài sản chủ yếu là đất đai, nhà xưởng, dự án đang triển khai - những tài sản có giá trị sổ sách cao nhưng tính thanh khoản thấp, đặc biệt trong điều kiện thị trường bất động sản trầm lắng.
Ngược lại, một doanh nghiệp có tài sản ít hơn nợ phải trả nhưng có dòng tiền ổn định và tài sản có tính thanh khoản cao vẫn có khả năng thanh toán và không rơi vào tình trạng phá sản. Ví dụ điển hình là các doanh nghiệp thương mại hoặc dịch vụ có vòng quay hàng tồn kho nhanh, dòng tiền từ hoạt động kinh doanh ổn định, mặc dù giá trị tài sản cố định không lớn.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật Phá sản 2014 quy định: “Kể từ ngày Tòa án nhân dân ra quyết định mở thủ tục phá sản đến trước ngày ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã không mất khả năng thanh toán thì Tòa án nhân dân ra quyết định đình chỉ tiến hành thủ tục phá sản”. Do đó, điều kiện duy nhất để đình chỉ thủ tục phá sản là doanh nghiệp “không mất khả năng thanh toán”. Cụm từ này phải được hiểu là đảo ngược của định nghĩa tại Điều 4: nếu “mất khả năng thanh toán” nghĩa là “không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng”, thì “không mất khả năng thanh toán” nghĩa là “đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán” đối với các khoản nợ trên 03 tháng.
Đây là điều kiện pháp định, không phải là điều kiện tùy nghi hay có thể thay thế bằng các tiêu chí khác. Khi Luật quy định “nếu doanh nghiệp không mất khả năng thanh toán” thì chỉ có thể hiểu theo đúng nghĩa của khái niệm “mất khả năng thanh toán” đã được định nghĩa tại Điều 4, không thể hiểu theo nghĩa nào khác.
Một phiên tòa ở TAND tp Kon Tum, tỉnh Kon Tum - Ảnh: Dương Đức Nhuận.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam – Lý luận và thực tiễn
-
Tòa Phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội tổ chức Hội nghị triển khai công tác năm 2026
-
Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về các nhiệm vụ trọng tâm công tác ngành Tòa án nhân dân năm 2026
Bình luận