Một số vấn đề về thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề xuất, kiến nghị
Thu thập tài liệu, chứng cứ vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của đương sự từ giai đoạn nộp đơn yêu cầu, khởi kiện cho đến khi xét xử. Đương sự là chủ thể đưa ra yêu cầu, phản bác, phản tố hay yêu cầu độc lập phải có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, phản bác, phản tố hay yêu cầu độc lập của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án căn cứ vào những nguồn tài liệu, chứng cứ này để kiểm tra, xác minh, đánh giá, xác định sự thật khách quan của vụ việc để đưa ra phán quyết. Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận, đề cao, tôn trọng và tạo điều kiện hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ. Bài viết tập trung phân tích quy định của pháp luật, đánh giá việc thực hiện pháp luật tố tụng dân sự về thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự; từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và đưa ra đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
Đặt vấn đề
Khi tham gia tố tụng, để bảo vệ quyền và lợi ích hợi pháp của mình, đương sự phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ để làm cơ sở chứng minh cho yêu cầu hay phản bác hoặc phản tố một vấn đề nào đó, trường hợp chủ thể này không đưa ra được chứng cứ để phản bác, hủy bỏ chứng cứ của chủ thể kia, thì chứng cứ của chủ thể kia sẽ có giá trị và được thừa nhận. Tuy nhiên, tất cả các nguồn chứng cứ mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân và đương sự thu thập, cung cấp cho Tòa án không mặc nhiên được coi là chứng cứ, nó chỉ được coi là chứng cứ khi được Tòa án xem xét, kiểm tra, đánh giá, xác định dựa trên các tiêu chí của pháp luật, đó là tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp. Để thực hiện được các yêu cầu đó, thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân và đương sự cần phải có kỹ năng, công cụ, biện pháp thu thập, cung cấp chứng cứ. Bởi vì, trên thực tế, hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự gặp rất nhiều khó khăn, ví dụ như không biết thu thập ở đâu, bằng biện pháp nào, hỗ trợ hoặc tạo điều kiện của các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ ra sao, thời hạn thu thập và cung cấp như thế nào...
Để đạt được các yêu cầu trên, Tòa án phải tôn trọng, có trách nhiệm tạo điều kiện bảo đảm cho đương sự được bình đẳng thực hiện quyền và nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ, cũng như phải có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện cho đương sự trong việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ. Tiếp nhận tài liệu, chứng cứ mà đương sự cung cấp theo trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để bảo quản giá trị của tài liệu, chứng cứ.
1. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật dân sự về thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự
1.1. Về nguyên tắc thu thập, cung cấp chứng cứ
Pháp luật tố tụng dân sự có vai trò quan trọng giúp đương sự thực hiện việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình giải quyết quan hệ pháp luật dân sự tranh chấp. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) đã có nhiều quy định mới khẳng định vai trò tích cực, chủ động và tạo điều kiện cho đương sự thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ. Theo đó, việc quy định về thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ phải cụ thể, rõ ràng, đầy đủ, công khai và minh bạch. Các quy định về thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ phải có tính khoa học, thống nhất, đồng bộ, không mâu thuẫn và có khả năng thi hành.
Chứng minh là “xương sống” để làm rõ nội dung, bản chất của các tình tiết, sự kiện. Chứng cứ và chứng minh có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, là cơ sở quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ việc, giúp cho việc giải quyết vụ việc được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Khoản 1 Điều 6 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp...”, với vai trò là chủ thể có quyền và nghĩa vụ trực tiếp trong quan hệ pháp luật dân sự tranh chấp để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng có thể là do người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện. Trong trường hợp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể yếu thế hoặc do pháp luật quy định, thì đương sự có thể được loại trừ một phần nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 91 BLTTDS 2015, cụ thể như:
- Khoản 4 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 quy định: “Bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mình được sản xuất theo một quy trình khác với quy trình được bảo hộ trong một số trường hợp nhất định”.
- Khoản 3 Điều 295 Luật Thương mại năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2019 quy định: “Bên vi phạm có nghĩa vụ chứng minh với bên bị vi phạm về trường hợp miễn trách nhiệm của mình”.
- Khoản 3 Điều 351 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Bên có nghĩa vụ dân sự không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”.
Như vậy, mặc dù BLTTDS 2015 đã khẳng định vai trò tích cực và chủ động của đương sự trong việc thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ, nhưng lại chưa quy định rõ ràng về thời điểm mà Tòa án bắt đầu hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ. Cụ thể, quy định hiện hành không xác định rõ liệu Tòa án sẽ hỗ trợ ngay từ khi đương sự nộp đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện, hay chỉ bắt đầu khi Tòa án thụ lý vụ việc. Vì vậy, trong một số trường hợp, đương sự có thể không đủ khả năng thu thập chứng cứ mà không có sự hỗ trợ của Tòa án. Điều 6 BLTTDS 2015 quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong việc thu thập, cung cấp chứng cứ và trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, quy định này chưa nêu rõ ràng về trách nhiệm của Tòa án trong việc hỗ trợ đương sự và thời điểm mà sự hỗ trợ này được bắt đầu[1]; Điều 91 BLTTDS 2015 đề cập đến các trường hợp mà đương sự có thể được miễn một phần nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, nhưng cũng không nêu cụ thể về trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án[2].
1.2. Phương thức, thủ tục cung cấp chứng cứ
Phương thức, thủ tục cung cấp chứng cứ được quy định tại khoản 2 Điều 96 và khoản 1 Điều 190 BLTTDS 2015. Theo đó, lần đầu tiên pháp luật tố tụng dân sự quy định phương thức cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ bằng hình thức điện tử qua cổng thông tin điện tử của Tòa án. Nội dung này được hướng dẫn chi tiết tại Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử. BLTTDS 2015 quy định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để đương sự có quyền tiếp cận yêu cầu, tài liệu, chứng cứ của nhau nhằm bảo đảm nguyên tắc tự định đoạt, tranh biện trong quá trình giải quyết vụ việc.
1.3. Thời hạn cung cấp chứng cứ
Theo quy định tại khoản 4 Điều 91 BLTTDS 2015 thì hậu quả của việc đương sự không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ việc cung cấp tài liệu, chứng cứ thì các yêu cầu hoặc phản tố sẽ không được Tòa án chấp nhận và phải chịu án phí.
Tại Tòa án cấp sơ thẩm: Việc cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh được thực hiện ngay từ thời điểm nộp đơn yêu cầu hoặc đơn khởi kiện theo quy định tại khoản 5 Điều 189 và khoản 3 Điều 362 BLTTDS 2015. Theo các quy định này, “tài liệu, chứng cứ hiện có” đã làm rõ và phân biệt được “việc khởi kiện” với “việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện”. Tuy nhiên, cụm từ “tài liệu, chứng cứ hiện có” trong điều luật còn mơ hồ, chưa rõ, dẫn đến có nhiều cách hiểu khác nhau.
Như vậy, sau khi Tòa án thụ lý vụ việc, đương sự tiếp tục thu thập, cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ ở bất kỳ thời điểm nào. Trường hợp đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu, thì đương sự phải cung cấp tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho sự thay đổi, bổ sung yêu cầu đó. Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu xuất phát từ quyền định đoạt của đương sự trong suốt quá trình tố tụng theo quy định tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015. Mặt khác, mục 7 phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 hướng dẫn “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Còn tại phiên họp và sau phiên họp thì Tòa án chỉ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu”. Tuy nhiên, quy định này dẫn đến ba cách hiểu khác nhau là:
- Để bảo đảm quyền tranh tụng tuyệt đối của đương sự thì không nên đặt ra các trường hợp ngoại lệ cho phép cung cấp tài liệu, chứng cứ quá thời hạn.
- Chấp nhận một số ngoại lệ cho phép cung cấp tài liệu, chứng cứ quá thời hạn là phù hợp với thực tiễn, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Chỉ chấp nhận trường hợp cung cấp tài liệu, chứng cứ quá thời hạn mà Tòa án yêu cầu giao nộp khi có lý do chính đáng và đương sự phải chứng minh được là có lý do chính đáng (sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của pháp luật).
Tại Tòa án cấp phúc thẩm: khoản 1 Điều 287 BLTTDS 2015 quy định đương sự được quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm gồm: “a) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp, cung cấp nhưng đương sự không cung cấp, giao nộp được vì có lý do chính đáng; b) Tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp sơ thẩm không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án”. Tuy nhiên, quy định này vẫn còn có những vướng mắc:
- Khoản 8 Điều 272 BLTTDS 2015 quy định: “Kèm theo đơn kháng cáo, người kháng cáo phải gửi theo tài liệu, chứng cứ bổ sung (nếu có) để chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Như vậy, điều luật không đặt ra điều kiện để tài liệu, chứng cứ mới được chấp nhận, dẫn đến đương sự có thể lợi dụng nhằm che giấu tài liệu, chứng cứ ở cấp xét xử sơ thẩm.
- BLTTDS 2015 không có quy định về việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại Tòa án xét xử cấp phúc thẩm nhưng có lý do chính đáng thì giải quyết ra sao, như thế nào?
Tại Tòa án giải quyết vụ việc theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm: Điều 6 khoản 1 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”.
Như vậy, Tòa án không thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh thay cho đương sự, Tòa án chỉ hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ khi đương sự đã chủ động, nỗ lực, tích cực thu thập mà không thực hiện được. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 330 BLTTDS 2015 quy định: “Đương sự có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu tài liệu, chứng cứ đó chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án”. Điều luật quy định như vậy đã dẫn đến cách hiểu là Tòa án phải có nghĩa vụ thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh thay đương sự.
2. Một số tồn tại, hạn chế về thực hiện pháp luật về thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự và nguyên nhân
2.1. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những thành quả đã đạt được, trong quá trình áp dụng pháp luật về thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ của đương sự vẫn còn tồn tại một số hạn chế, vướng mắc, bất cập nhất định.
* Đối với đương sự:
- Nhiều đương sự không biết được quyền và nghĩa vụ của mình về việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ. Dẫn đến, trong nhiều trường hợp đương sự chưa tích cực, chủ động hoặc còn lúng túng, chưa hiểu biết trong việc xác định tài liệu, chứng cứ phải thu thập, cung cấp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên không cung cấp hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ không đầy đủ. Bên cạnh đó, còn có những trường hợp đương sự lại trông chờ, phụ thuộc vào Tòa án trong việc xác định, thu thập tài liệu, chứng cứ.
- Đương sự còn gặp khó khăn hoặc không thể thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ từ chính đương sự khác hoặc trong nhiều trường hợp đương sự ngộ nhận việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ sẽ gây bất lợi cho chính mình, nên đã không hợp tác, giao nộp, cung cấp tài liệu, chứng cứ. Đặc biệt, có những trường hợp còn chống đối, cản trở khi Tòa án tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ như đo vẽ, định giá tài sản hoặc xem xét, thẩm định tại chỗ. Mặt khác, một số đương sự không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau theo quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS 2015.
* Đối với Tòa án:
Vẫn còn tình trạng Tòa án không tiến hành biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ khi đương sự có yêu cầu do họ không thể tự mình thu thập được, dẫn đến quyền và lợi ích của đương sự không bảo đảm. Bên cạnh đó, trong nhiều trường hợp Tòa án không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quy định của pháp luật về thủ tục giao nhận tài liệu, chứng cứ. Mặt khác, do không có quy định về thời hạn thu thập chứng cứ của Tòa án nên dẫn đến tình trạng Tòa án có quyền thu thập chứng cứ trong bất kỳ quá trình tố tụng nào, đặc biệt là sau khi hết thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự.
* Đối với trợ giúp viên pháp luật, luật sư: Chất lượng trợ giúp viên pháp luật, dịch vụ của luật sư đã được nâng cao, tiến bộ đáp ứng được yêu cầu. Tuy nhiên, vẫn còn không đồng đều, trong một số trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu liên quan đến hỗ trợ đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ.
2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, nhiều quy định của BLTTDS chưa rõ ràng. BLTTDS 2015 liệt kê các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó có đương sự nhưng lại không quy định trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ. Theo đó, trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ của đương sự lại được quy định tại Luật Tiếp cận thông tin, Luật Giám định tư pháp, Nghị định về thẩm định giá tài sản... Trong khi trình độ hiểu biết kiến thức pháp luật của số đông đương sự về thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ lại còn có những hạn chế nhất định.
BLTTDS 2015 không quy định về thời hạn chuyển giao và hậu quả của việc không chuyển giao tài liệu, chứng cứ giữa đương sự với nhau. Biện pháp, hình thức áp dụng chế tài khi đương sự vi phạm quy định không chuyển giao, dẫn đến thực tế đương sự thường không thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ cho nhau. Mặc dù, Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 có hướng dẫn nhưng cũng chưa xác định rõ cơ chế ràng buộc đương sự phải thực hiện nghĩa vụ chuyển giao tài liệu, chứng cứ.
BLTTDS 2015 không quy định các hình thức chế tài đối với trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cố tình không cung cấp. Do đó, thường xảy ra các trường hợp như (1) không nhận được bất cứ sự phản hồi nào của chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có cung cấp hay không cung cấp; (2) chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ từ chối cung cấp nhưng lại chủ yếu bằng lời nói chứ không phải bằng văn bản với nhiều lý do, hoặc là chuyển nghĩa vụ, trách nhiệm cung cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân khác mà không giải thích lý do cụ thể, rõ ràng; (3) chủ thể đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cung cấp không đúng theo yêu cầu hoặc không đầy đủ, không chính xác hoặc không đúng thời hạn.
BLTTDS 2015 chưa có quy định cụ thể về việc thu thập tài liệu, chứng cứ điện tử, nên đa phần các tình tiết, sự kiện được lưu trữ trong thông điệp dữ liệu điện tử mà đương sự cung cấp không đáp ứng được đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ nên không được ghi nhận là chứng cứ.
Pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật dân sự vẫn chưa có quy định về trường hợp kết quả thẩm định giá và định giá tài sản có khác nhau, dẫn đến thực tế giải quyết vụ việc còn xung đột, không thống nhất. Mặt khác, pháp luật tố tụng dân sự cũng chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về phương pháp xác định giá thị trường tại địa phương khi tiến hành định giá tài sản có tranh chấp, nên Hội đồng định giá không định giá được hoặc định giá không sát với giá thị trường. Thực tế hiện nay, Hội đồng định giá vẫn thường căn cứ vào khung giá theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành, nên kết quả định giá thường thấp hơn giá thị trường.
Tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015 không quy định cụ thể tiêu chí “lý do chính đáng” và chế tài khi đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ nên sẽ dẫn đến sự áp dụng không thống nhất. Tòa án không có căn cứ rõ ràng để xác định việc đương sự cung cấp tài liệu, chứng cứ quá thời hạn là “có lý do chính đáng” hay không, để sử dụng hay không sử dụng các tài liệu, chứng cứ này làm căn cứ giải quyết vụ án.
BLTTDS 2015 chỉ liệt kê các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ của đương sự nên cũng không có căn cứ để xác định tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, đương sự thu thập có giá trị, bảo đảm tính hợp pháp hay không.
Thứ hai, kỹ thuật lưu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ, đặc biệt là những hồ sơ và giấy tờ liên quan đến nguồn gốc nhà đất, quá trình chuyển nhượng, cập nhật biến động nhà đất ở nhiều địa phương trong các giai đoạn chưa được khoa học, dẫn đến việc hỗ trợ thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đương sự còn hạn chế, khó khăn và hiệu quả không cao.
Thứ ba, số lượng, chất lượng của Trợ giúp viên pháp luật, luật sư còn hạn chế, không được đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu: (1) số lượng Trợ giúp viên pháp luật còn thiếu, phát triển chậm, không ổn định, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ trợ giúp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp; (2) số lượng luật sư hiện có so với dân số quốc gia còn thấp, so với nhu cầu sử dụng dịch vụ của xã hội còn thiếu và mất cân đối giữa các vùng miền. Bên cạnh đó, hoạt động hành nghề luật sư còn gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế giám sát, kiểm tra có hiệu quả đối với những người có hành vi lạm quyền, cản trở quyền hoạt động của luật sư.
3. Một số đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, về định hướng chung, tác giả đề xuất cần tiếp tục cải cách tư pháp, hoàn thiện thể chế pháp luật, bảo vệ quyền con người trong tố tụng dân sự, bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý, đương sự có thể chủ động nhanh chóng, thuận lợi thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, về hoàn thiện pháp luật, cần sửa đổi, bổ sung BLTTDS 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành theo hướng:
- Hoàn thiện các quy định về thời hạn cung cấp tài liệu, chứng cứ của đương sự, chỉ chấp nhận các tài liệu, chứng cứ mới khi có lý do chính đáng.
- Cần có điều luật quy định thời điểm đương sự được quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ và quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong trường hợp họ không cung cấp được, cung cấp không đầy đủ hay cung cấp không đúng thời hạn.
- Quy định cụ thể tiêu chí “lý do chính đáng” tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015 là những trường hợp bất khả kháng, hoặc trở ngại khách quan khác mà đương sự không thể thực hiện được việc cung cấp tài liệu, chứng cứ trong thời hạn luật định như do thiên tai, lũ lụt; do ốm đau, tai nạn phải nằm viện điều trị...
- Các Điều 6, Điều 7, khoản 1 Điều 70, điểm e khoản 1 Điều 97, khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTDS 2015 có quy định về việc Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ. Tuy nhiên các điều luật này không có quy định về thời hạn thu thập chứng cứ của Tòa án dẫn đến tình trạng Tòa án có quyền thu thập chứng cứ trong bất kỳ quá trình tố tụng nào, đặc biệt là sau khi hết thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự, dẫn đến quy định về thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự là vô nghĩa và có thể dẫn đến sự tùy tiện. Vì vậy, cần có một điều luật quy định về thời hạn thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Khoản 1, Điều 97 BLTTDS 2015 mới chỉ liệt kê các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân mà không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thu thập tài liệu, chứng cứ của đương sự. Do đó, để tài liệu, chứng cứ mà cơ quan, tổ chức, đương sự thu thập có giá trị, bảo đảm tính hợp pháp, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn ghi nhận cụ thể nội dung này để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, cụ thể cần quy định rõ:
+ Đối với tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, thông điệp dữ liệu điện tử thì khi thu thập cần phải bảo đảm tài liệu, chứng cứ đó được rút ra từ các nguồn chứng cứ theo quy định tại Điều 95 BLTTDS 2015.
+ Khi thu thập vật chứng cần bảo đảm theo quy định tại khoản 4 Điều 95 BLTTDS 2015, theo đó vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc và phải được bảo quản, giữ gìn tính đặc định của vật chứng.
+ Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng hoặc yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận chữ ký của người làm chứng. Đương sự thu thập chứng cứ từ người làm chứng thông qua lời trình bày của người làm chứng được ghi trong băng ghi âm, ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh và phải có văn bản xác nhận về xuất xứ băng ghi âm, ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo quy định tại khoản 5 Điều 95 BLTTDS 2015.
+ Trình tự, thủ tục xác định chữ ký, điểm chỉ của người làm chứng thực hiện theo Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP và Quyết định số 1329/QĐ-BTP ngày 01/6/2020 của Bộ Tư pháp về việc công bố thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
- Cần quy định rõ như thế nào là việc “đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ” để tránh việc có nhiều cách hiểu và áp dụng giải quyết khác nhau. Xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự đối với việc đương sự không thể tự mình thu thập chứng cứ sẽ hạn chế được tình trạng đương sự đưa ra các lý do để chuyển trách nhiệm sang Tòa án, hoặc Tòa án làm thay nghĩa vụ của đương sự, ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư, đồng thời làm gia tăng khối lượng công việc của Tòa án.
Thứ ba, về các giải pháp thực thi
- Để tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ bằng phương tiện điện tử thì cần có phương pháp định danh người yêu cầu, người khởi kiện. Theo đó, người yêu cầu, người khởi kiện cần xác thực bằng số điện thoại, mã OTP (one time password), bằng công nghệ sinh trắc học và người yêu cầu, người khởi kiện có thể đăng ký vào hệ thống số hóa dữ liệu quốc tế (DUNS - Data Universal Numbering System)...
- Nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ phía cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ để đương sự thu thập tài liệu, chứng cứ được nhanh chóng, chính xác, đầy đủ và đúng thời hạn.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hành nghề luật sư để nâng cao chất lượng tư vấn pháp luật, bổ trợ tư pháp đồng thời tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về việc thu thập, cung cấp tài liệu, chứng cứ của đương sự phù hợp và hiệu quả để người dân nâng cao sự hiểu biết, nhận thức về pháp luật, thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình; nâng cao chất lượng của hoạt động trợ giúp pháp lý.
Kết luận
Việc thu thập, cung cấp chứng cứ vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của đương sự để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích chính đáng của mình. Pháp luật tố tụng dân sự nước ta với những quy định ngày càng hoàn thiện, đặc biệt quy định về thu thập, cung cấp chứng cứ của đương sự. Tuy nhiên, quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về thu thập chứng cứ vẫn còn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần tiếp tục được nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.
3. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019.
4. Luật Thương mại năm 2005.
5. Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
6. Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
7. Quyết định số 1329/QĐ-BTP ngày 01/06/2020 của Bộ Tư pháp về việc công bố thủ tục hành chính sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực chứng thực thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Tư pháp.
8. Nghị quyết số 04/2016/NQ-HĐTP ngày 30/12/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.
[1] Thiều Hữu Minh, Nghĩa vụ thu thập chứng cứ thuộc đương sự hay Tòa án, https://lsvn.vn/nghi-a-vu-thu-tha-p-chu-ng-cu-thuo-c-duong-su-hay-to-a-a-n-1701310413.html, truy cập ngày 08/8/2024.
[2] Lê Xuân Quang, Nguyễn Thị Tường Vi, Nghĩa vụ chứng minh của đương sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và hướng hoàn thiện, https://vksnd.gialai.gov.vn/Nghien-cuu-Trao-doi/nghia-vu-chung-minh-cua-duong-su-theo-bo-luat-to-tung-dan-su-2015-va-huong-hoan-thien-1888.html, truy cập ngày 08/8/2024.
VKSND huyện Thanh Chương, Nghệ An phối hợp TAND huyện tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm - Nguồn: CTTĐT VKSND tỉnh Nghệ An.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm 17 bị cáo trong vụ án “chuyến bay giải cứu” giai đoạn 2
Bình luận