ÔNG A CÓ PHẠM TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN KHÔNG?

        Ông A ở trên nhà tạm tại  số nhà 261B thuộc xã C huyện X. Nguồn gốc căn nhà này, trước đây là của ông B dựng lán tạm (làm xưởng mộc để thi công công trình gần đó) trên đất mượn của UBND phường. Năm 1995, ông A thuê để ở với giá 150.000 đồng/tháng; ngày 30/9/1999, ông B bán lại cho ông A với giá 1.200.000 đồng. Hai bên có viết giấy “Giấy bán thanh lý nhà tạm” trong đó có nội dung “diện tích đất chúng tôi khai phá và xây dựng nhà là (10 x 30 = 300m2)”. Sau khi vào sử dụng, ông A đã lấn ra xung quanh và trồng cây ăn quả trên diện tích đất gần 3000m2.

        Ông A có đăng ký tạm trú tại công an phường sở tại và được cấp Sổ đăng ký tạm trú diện KT3 từ 27/5/1999.

        Ngày 30/12/2005, UBND tỉnh Y ban hành Quyết định số 5129/QĐ-UBND thu hồi 2274,2 m2, trong đó có 200m2 đất có nhà tạm của ông A.

        Ngày 29/6/2006 Chủ tịch UBND huyện X ban hành Quyết định số 2325/QĐ-UBND (QĐ 2325) phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ đối với hộ ông A. Trong đó, đền bù vật kiến trúc, hoa màu trên đất là 46 triệu đồng đối với diện tích đất 200 m2.

       Danh sách thu hồi đất ngày 04/7/2006 UBND xã đã xác định 200 m2 đất ông A sử dụng: Đất có nguồn chiếm dụng của nhà nước để làm nhà ở, không đủ điều kiện đền bù quyền sử dụng đất, sổ tạm trú có tẩy sửa thời gian.

        Ngày 22/9/2006, ông A nhận tiền đền bù nhưng không di rời.

        Ngày 28/9/2006, ông A khiếu nại QĐ 2325 yêu cầu xin được hỗ trợ đất tái định cư, không khiếu nại về bồi thường giá trị quyền sử dụng đất.

       Ngày 11/10/2006, UBND huyện X ban hành quyết định giải quyết khiếu nại số 1572/QĐ-UBND có nội dung bác yêu cầu hỗ trợ đất tái định cư của ông A.

       Ngày 02/12/2008, UBND huyện X ban hành Quyết định số 1726/QĐ-UBND thu hồi 500 m2 nằm trong diện tích ông A lấn chiếm.

      Tại Quyết định số 2225/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 (QĐ 2225) của Chủ tịch UBND huyện X phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi 500m2 đối với hộ ông A cũng chỉ đền bù cây trồng và hoa màu trên đất; không bồi thường quyền sử dụng đất, không cấp đất tái định cư.

       Ngày 10/6/2009, ông A khiếu nại Quyết định số 2225/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 và ngày 19/9/2009 ông A khiếu nại QĐ 2325, yêu cầu được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất hai lô đất bị thu hồi. Ông A xuất trình các giấy tờ theo đơn khiếu nại gồm:

– Giấy xác nhận bán căn nhà tạm của ông B ghi ngày 30/9/1991 (giấy này ông A nhờ ông B ghi lại ngày bán từ 30/9/1999 thành 30/9/1991);

– Sổ tạm trú ghi thời gian tạm trú từ năm 1990 (sổ này ông A sửa thời gian tạm trú từ năm 1999 thành 1990 rồi photo đưa ra UBND xã xác nhận);

– Đơn xác nhận tạm trú có xác nhận của UBND và Công an xã xác nhận thời gian tạm trú từ tháng 10/1994.

       Ngoài ra, ông A còn xuất trình giấy mua bán đất 1000m2 đất của ông E từ năm 1988.

       Các giấy tờ trên, ông A gửi kèm theo đơn khiếu nại cho Thanh tra huyện và UBND xã.

       UBND huyện giao cho Thanh tra huyện giải quyết đơn khiếu nại của ông A. Thanh tra đã tiến hành thu thập tài liệu và xác minh thì được các cơ quan có trách nhiệm cho biết hai lô đất ông A đang sử dụng đều là đất do nhà nước quản lý. Tại biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 09/12/2009 của Đoàn kiểm tra do Thanh tra huyện thành lập, có thành viên là ông D (cán bộ địa chính xã, người trực tiếp cho ông B mượn đất làm nhà tạm), sau khi nghe báo cáo tài liệu của một số đơn vị cung cấp về nguồn gốc lô đất 261B, đoàn kiểm tra đã kết luận: Đất tại 261B từ năm 1983 đến thời điểm kiểm tra là đất nhà nước đã giao cho các cơ quan, đơn vị của nhà nước quản lý.

        Thanh tra huyện có công văn số 238/TTr ngày 27/10/2009 và công văn số 16/TTr ngày 26/01/2010 gửi UBND xã đề nghị xác định tình trạng sử dụng đất của hộ ông A đối với hai lô đất thu hồi; xác định cụ thể thời điểm hộ ông A bắt đầu sử dụng và thời điểm hộ ông A xây dựng căn nhà trên đất.

         Chủ tịch xã giao cho ông D cán bộ địa chính xã soạn thảo văn bản trả lời theo yêu cầu của Thanh tra. Ông D chính là người đã cho ông B mượn đất đất để làm nhà tạm (căn nhà ông A đang sử dụng); là người tham gia các lần kiểm tra, đánh giá về khu đất (các lần kiểm tra này đều kết luận đất do ông A lấn chiếm); ông D cũng là người trực tiếp lập “Danh sách đê nghị đền bù…” ghi rõ trong danh sách, đất của hộ ông A “chiếm dụng đất của nhà nước để làm nhà ở từ năm 1998 – không đủ điều kiện để bồi thường”. Ông D đã soạn thảo 2 công văn trả lời Thanh tra huyện với nội dung:

(1) 02 lô đất có nguồn gốc năm 1989 xã lập bản đồ giải thửa thuộc đất Nhà nước chưa sử dụng, trên bản đồ địa chính xã năm 1989 ký hiệu đất hoang;

(2) Theo số đăng ký tạm trú do Công an xã cấp ngày 27/5/1999 thì ông Đông tạm trú tại 261B từ năm 1990.

(3) Diện tích đất 200 m2 có căn nhà tạm. Tháng 9/1991 ông B bán cho ông A và ông A sử dụng cho đến nay.

(4) Diện tích đất 500 m2 UBND xã không xác định được thời gian ông A sử dụng.

       Thanh tra huyện X đã căn cứ vào công văn của UBND xã cung cấp, báo cáo đề xuất Chủ tịch UBND huyện ra quyết định số 786/QĐ-UBND ngày 12/3/2010 (QĐ 786) giải quyết khiếu nại của ông A với nội dung: Chấp nhận nội dung khiếu nại của ông A đối với diện tích đất 200 m2, đồng ý bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, hỗ trợ di rời và bố trí đất tái định cư cho hộ ông A; bác yêu cầu của ông A đòi bồi thường giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích 500m2.

      UBND huyện X giao cho Ban giải phóng mặt bằng của huyện X thực hiện Quyết định số 786. Quá trình tham mưu cho UBND huyện X giải quyết đơn khiếu nại của ông A và thực hiện QĐ 786, Ban giải phóng mặt bằng đã có 02 báo cáo số 48 ngày 18/3/2009 và số 31 ngày 19/3/2009 trong đó đề nghị UBND huyện X xem xét lại trường hợp sử dụng đất của ông A không đủ điều kiện để bồi thường giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 200m2, vì đất đó do nhà nước giao cho các cơ quan quản lý liên tục từ năm 1983 đến nay và có chung nguồn gốc như 35 hộ khác bị thu hồi không được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, không được cấp đất tái định cư.

       Ngày 02/4/2010, ông A tiếp tục khiếu nại các quyết định số 2325, 2225, 786 lên UBND tỉnh Y.

      Ngày 05/5/2010, UBND huyện X đã có văn bản về việc tạm ngưng thực hiện QĐ 786 cho đến khi có ý kiến chỉ đạo tiêp theo và giao cho Phòng TN-MT chủ trì phối hợp với Thanh tra huyện, HĐND, UBND, Ban bồi thường và giải phóng mặt bằng nghiên cứu, tham mưu và đề xuất cho UBND huyện X xem xét giải quyết khiếu nại của hộ ông A đối với diện tích đất 200m2.

       Ngày 15/6/2010, ông A rút phần yêu cầu khiếu nại về việc xem xét bồi thường đối với 200 m2 đất (tức là rút khiếu nại đối với QĐ 2325 và nội dung liên quan đến quyết định này tại QĐ 786); giữ nguyên yêu cầu được bồi thường 500m2 (QĐ 2225 và một phần QĐ 786 liên quan đến diện tích đất 500m2. Thanh tra tỉnh đã lấy hồ sơ giải quyết khiếu nại lầm đầu để xem xét. Thanh tra huyện X đã không cung cấp văn bản số 832 về việc ngưng thực hiện QĐ 786 cho Thanh tra tỉnh.

       Vì vậy, Thanh tra tỉnh đã Báo cáo kết quả xác minh với nội dung: Diện tích đất 500 m2 hộ ông A bao chiếm sử dụng nên không đủ điều kiện bồi thường. Đồng thời, kiến nghị UBND tỉnh: (1) Bác nội dung khiếu nại của ông A yêu cầu bồi thường quyền sử dụng đối với diện tích đất 500 m2; (2) Giữ nguyên các QĐ 2225 và QĐ 786 UBND huyện X.

         Ngày 28-7-2010, UBND tỉnh đã ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 1783/QĐ-UBND (QĐ 1783), với nội dung: Tại Quyết định số 876 đã công nhận cho hộ ông A quyền sử dụng diện tích 200m2, việc giải quyết này là có lý có tình. Hộ ông A không khiếu nại nội dung này. Do đó, theo quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo thì phần nội dung này trong QĐ 786 có hiệu lực pháp luật.

        Sau khi nhận QĐ 1783, UBND huyện đã giao cho Ban Bồi thường giải quyết mặt bằng huyện thực hiện quyết định: Hộ ông A đã nhận bồi thường số tiền 2,5 tỷ đồng và 01 lô đất tái định cư.

        Quan điểm thứ nhất cho rằng, ông A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự vì đã có thủ đoạn gian dối (nhờ viết lại giấy bán nhà, sửa thời gian trong sổ tạm trú, khai tạm trú không đúng sự thật khi đi xin xác nhận) hòng chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và thực tế đã chiếm đoạt được 2,5 tỷ đồng và 01 lô đất tái định cư.

       Quan điểm thứ hai cho rằng, ông A không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mặc dù ông A có thủ đoạn gian dối (như nhờ ông B viết lại giấy bán nhà sớm lên 8 năm, sửa ngày trong Sổ tạm trú, khai tạm trú không đúng sự thật…) với mục đích để mình đủ điều kiện được đền bù nhưng không phải những người giải quyết việc khiếu nại, giải quyết việc đền bù giải phóng mặt bằng không biết lô đất ông A sử dụng không thuộc diện được bồi thường giá trị quyền sử dụng đất và cấp đất tái định cư, cụ thể:

– Tại danh sách thu hồi đất ngày 04/7/2006 UBND xã đã xác định 200 m2 đất ông A sử dụng: Đất có nguồn chiếm dụng của nhà nước để làm nhà ở, không đủ điều kiện đền bù quyền sử dụng đất, sổ tạm trú có tẩy sửa thời gian.

– Thanh tra huyện X mặc dù trước đó đã tổ chức Đoàn kiểm tra hiện trạng đã được các cơ quan có trách nhiệm cho biết hai lô đất ông A đang sử dụng đều là đất do nhà nước quản lý. Đoàn kiểm tra này đã kết luận đất tại 261B từ năm 1983 đến thời điểm kiểm tra là đất nhà nước đã giao cho các cơ quan, đơn vị của nhà nước quản lý nhưng Thanh tra huyện X đã không xem xét toàn diện các tài liệu đã thu thập về lô đất, chỉ căn cứ vào công văn của UBND xã cung cấp, báo cáo đề xuất Chủ tịch UBND huyện QĐ 786 chấp nhận nội dung khiếu nại của ông A đối với diện tích đất 200 m2, đồng ý bồi thường giá trị quyền sử dụng đất, hỗ trợ di rời và bố trí đất tái định cư cho hộ ông A.

Ngày 15/6/2010, mặc dù ông A đã rút phần yêu cầu khiếu nại về việc xem xét bồi thường đối với 200 m2 đất (phần đất được bồi thường 2,5 tỷ và cấp 01 lô đất tái định cư). Nhưng đến ngày 28-7-2010, UBND tỉnh vẫn ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 2 số 1783/QĐ-UBND trong đó công nhận cho hộ ông A quyền sử dụng diện tích 200m2 để bồi thường và cấp đất tái định cư cho hộ ông A.

– Ban bồi thường giải phóng mặt bằng huyện X mặc dù trước đó đã có 2 báo cáo số 48 ngày 18/3/2009 và số 31 ngày 19/3/2009 trong đó đề nghị UBND huyện X xem xét lại trường hợp sử dụng đất của ông A không đủ điều kiện để bồi thường giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất 200m2 nhưng vẫn triển khai thi hành QĐ 1783, đền bù tiền và cấp đất tái định cư cho ông A. Do đó, việc ra quyết định giải quyết đền bù sai là lỗi chủ yếu là của các cơ quan giải quyết khiếu nại. 

      Tác giả bài viết nghiêng về quan điểm thứ hai, ông A không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Rất mong nhận được sự quan tâm trao đổi từ các bạn đọc.

Ảnh: Nhận tiền đền bù giải phóng mặt bằng một dự án ở Quảng Ninh 

Hồ Nam