Phân biệt áp giải và dẫn giải theo BLTTHS năm 2015

Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 4

Trong BLTTHS năm 2003 áp giải và dẫn giải được quy định rải rác trong các Điều 49, 50, 55 thuộc Chương IV (Người tham gia tố tụng), Điều 130 thuộc Chương X (Khởi tố bị can và hỏi cung bị can), Điều 134 thuộc Chương XI (Lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đối chất và nhận dạng. Tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 áp giải và dẫn giải được quy định trong chương riêng và được xem là biện pháp cưỡng chế.

+ Cơ sở pháp lý: Được quy định tại Điều 127 BLTTHS năm 2015.

+ Điều kiện áp dụng:

– Áp giải: Áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội.

Trong BLTTHS năm 2003 thì áp giải chỉ áp dụng đối với trường hợp là bị can, bị cáo, tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 mở rộng đối tượng áp dụng ngoài bị can, bị cáo còn có người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội (Điều 60, 61, khoản 1 Điều 126 BLTTHS năm 2015).

Dẫn giải có thể áp dụng đối với:

“a) Người làm chứng trong trường hợp họ không có mặt theo giấy triệu tập mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; b) Người bị hại trong trường hợp họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan; c) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan”

Trong BLTTHS năm 2003 quy định đối tượng dẫn giải bao gồm: Người làm chứng (Điều 55), tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 quy định việc dẫn giải ngoài người làm chứng còn có thể được áp dụng đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Điều 57); người bị hại (Điều 62) trong đó quy định việc dẫn giải đối với trường hợp người bị hại khi họ từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan, đây là sự bổ sung quan trọng nhằm giải quyết đối với những vụ án liên quan đến tính mạng, sức khỏe con người như tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134)…

+ Thẩm quyền áp giải, dẫn giải:

BLTTHS năm 2003 chỉ quy định các cơ quan có thẩm quyền triệu tập bị can, bị cáo thì có quyền ra lệnh áp giải, dẫn giải, tuy nhiên trong BLTTHS năm 2015 mở rộng thẩm quyền triệu tập cụ thể thẩm quyền áp giải, dẫn giải bao gồm: Điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định áp giải, dẫn giải.

+ Trình tự, thủ tục áp giải, dẫn giải:

– Quyết định áp giải, quyết định dẫn giải phải ghi rõ họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị áp giải, dẫn giải; thời gian, địa điểm người bị áp giải, dẫn giải phải có mặt và các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của BLTTHS năm 2015.

– Người thi hành quyết định áp giải, dẫn giải phải đọc, giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải, dẫn giải theo quy định tại Điều 133 của BLTTHS năm 2015.

Cơ quan Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có thẩm quyền có trách nhiệm tổ chức thi hành quyết định áp giải, dẫn giải.

– Không được bắt đầu việc áp giải, dẫn giải người vào ban đêm; không được áp giải, dẫn giải người già yếu, người bị bệnh nặng có xác nhận của cơ quan y tế.

Tuy nhiên trong trường hợp người tạm giam trong các cơ sở giam giữ của lực lượng công an nhân dân nhưng thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự khi áp giải, dẫn giải thủ tục quy định như thế nào? Ví dụ: Nguyễn Văn A phạm tội trộm cắp tài sản vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân huyện X tỉnh Y và bị cáo tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Y. Đồng thời A phạm tội cố ý gây thương tích vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Quân sự khu vực 1 Quân khu 4, theo quy định khi áp giải bị cáo thì lực lượng Công an nhân dân áp giải với những bị cáo bị giam tại trại giam của lực lượng công an và do Tòa án nhân dân xét xử mà không áp giải những bị cáo do Tòa án Quân sự xét xử vì vậy, trong trường hợp này lực lượng áp giải của Quân đội không được áp giải vì bị cáo đang bị giam tại trại giam Công an nhân dân. Trường hợp này xử lý như thế nào?

Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn có thể giải quyết như sau:

Thứ nhất: Có thể thực hiện việc chuyển phạm nhân từ trại giam do Công an nhân dân quản lý sang trại giam do Quân đội quản lý. Thủ tục chuyển trại thực hiện theo quy định của pháp luật.

Thứ hai: Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử Tòa án Quân sự làm công văn trích xuất gửi Công an tỉnh (Nơi đang giam giữ phạm nhân) sau khi Công an tỉnh đồng ý cho trích xuất thì lực lượng áp giải của Quân đội thực hiện việc áp giải, sau khi xét xử xong thì trả phạm nhân về trại giam đã trích xuất trước đó.

Lưu ý: – Trường hợp phạm nhân đang bị tạm giam tại trại giam do Công an tỉnh quản lý thì văn bản trích xuất gửi cho Công an tỉnh. Trường hợp trại giam do Bộ Công an quản lý thì văn bản trích xuất gửi cho Bộ Công an ra lệnh trích xuất.

            – Trường hợp phạm nhân đang chấp hành án thì lệnh trích xuất do Bộ công an quyết định. Trường hợp án chưa có hiệu lực đang bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh thì văn bản trích xuất gửi cho Công an tỉnh.

 

TRẦN VĂN HÙNG