Quy định về thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp của Luật Đất đai năm 2024 từ góc nhìn về thẩm quyền hủy quyết định cá biệt

Bài viết phân tích quy định về thẩm quyền hủy quyết định cá biệt của của Tòa án tại Điều 34 BLTTDS năm 2015 và so sánh quy định về thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp giữa Luật Đất đai năm 2013 với Luật Đất đai năm 2024 để xác định thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án cấp huyện hay cấp tỉnh.

1. Quy định về thẩm quyền hủy quyết định cá biệt theo BLTTDS năm 2015

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 34 BLTTDS năm 2015, thì thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức được quy định như sau:

“1. Khi giải quyết vụ việc dân sự, Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết.

4. Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.

Tại khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định về thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh: “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”. 

Quy định của Điều 34 BLTTDS năm 2015 là quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, đây là quy định chung cho các loại quyết định cá biệt, còn Giấy chứng nhận QSDĐ chỉ là một loại quyết định cá biệt cụ thể trong những quyết định cá biệt được quy định[1]. Tại khoản 2 Điều 34 BLTTDS năm 2015 đã định nghĩa: Quyết định cá biệt là quyết định đã được ban hành về một vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể; và tại khoản 21 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024 đã định nghĩa: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất.

Để làm rõ vấn đề trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất (QSDĐ) và tài sản gắn liền với đất, nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (gọi tắt là đương sự) có đề nghị hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, thì yêu cầu này có phải là yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập hay không, tác giả cho rằng cần phải có sự so sánh giữa quy định trước đây với quy định hiện hành để tìm ra sự khác biệt.

Theo đó, tham khảo quy định tại khoản 2 Điều 2 và Điều 3 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 của TAND tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, thì: Tòa án xem xét hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật khi đương sự có yêu cầu bằng văn bản hoặc trình bày yêu cầu tại Tòa án trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Yêu cầu được thể hiện trong đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc đơn yêu cầu độc lập. Đơn khởi kiện vụ án dân sự, đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự hoặc đơn yêu cầu độc lập phải có yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo quy định tại Điều 105 Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp đương sự trình bày yêu cầu tại Tòa án thì Tòa án có trách nhiệm lập biên bản và biên bản phải có chữ ký của Thẩm phán và đương sự. Trường hợp đương sự yêu cầu tại phiên tòa thì được ghi nhận trong biên bản phiên tòa.

Tuy nhiên, vấn đề nêu trên, TANDTC đã có giải đáp tại Mục 1 Phần III Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử, như sau: “Trong trường hợp này, cần xác định đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là yêu cầu của đương sự, nhưng không phải là yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập”. Mặc dù, văn bản giải đáp của TANDTC không nêu căn cứ hay lập luận để xác định yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ của đương sự không phải là yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập. Tuy nhiên, theo Bản thuyết minh về dự án BLTTDS (sửa đổi) ngày 26/02/2015 của TANDTC trình Quốc hội cho thấy: Điểm khác biệt trong quy định về thẩm quyền của Tòa án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức giữa Điều 32a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 với Điều 34 BLTTDS năm 2015, đó là: Quy định tại Điều 32a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, thì Tòa án chỉ có quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định cá biệt trong cùng vụ việc dân sự khi đương sự có yêu cầu. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, nếu Tòa án phát hiện quyết định cá biệt trái pháp luật có ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự nhưng đương sự không có yêu cầu, thì Tòa án cũng không có thẩm quyền hủy quyết định cá biệt đó. Quy định như vậy không đáp ứng được yêu cầu của việc giải quyết vụ vụ việc dân sự. Do đó, BLTTDS năm 2015 đã bỏ cụm từ “bị yêu cầu hủy”[2]. Như vậy, khi giải quyết vụ việc dân sự, thì Tòa án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết trong cùng một vụ việc dân sự.

Vấn đề đặt ra là yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ không phải là yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập, thì Tòa án sẽ không tuyên chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ của đương sự (nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Bởi vì, theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015, thì đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Như vậy, chỉ khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 195 và Điều 196 BLTTDS năm 2015 thì mới được quyền tuyên chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ của đương sự.

Về thẩm quyền hủy Giấy chứng nhận QSDĐ đã được TANDTCo giải đáp rất nhiều[3], nhưng gần nhất là văn bản giải đáp tại mục 3, Phần III Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023 của TAND tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử, thì TAND tối cao đã giải đáp như sau: Khi giải quyết tranh chấp QSDĐ có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc Tòa án xét thấy cần phải hủy Giấy chứng nhận QSDĐ thì thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh.

2. Quy định của Luật Đất đai năm 2013 về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp

Tại khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp như sau:

“2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.

3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai”.

Trước đây, căn cứ vào quy định về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp của Luật Đất đai năm 2013, TANDTC đã có văn bản giải đáp nghiệp vụ đối với trường hợp, trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho QSDĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất đó cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho QSDĐ. Sau đó, các bên tranh chấp và Tòa án xét thấy hợp đồng nói trên bị vô hiệu hoặc chấp nhận yêu cầu hủy bỏ. Vậy, khi giải quyết Tòa án có phải áp dụng Điều 34 BLTTDS năm 2015 đưa những cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để xem xét hủy Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho QSDĐ hay không?. Theo đó, tại Mục 2 Phần II Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của TANDTC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính đã giải đáp như sau:

Theo quy định tại Điều 34 BLTTDS năm 2015 khi giải quyết tranh chấp về QSDĐ mà trong đó có việc cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất đang tranh chấp không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự thì Tòa án phải đưa cơ quan cấp Giấy chứng nhận QSDĐ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét hủy Giấy chứng nhận QSDĐ đó.

Tuy nhiên, tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 quy định cơ quan cấp Giấy chứng nhận QSDĐ không được thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ trong trường hợp “...người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai...”. Theo Điều 195 Luật Đất đai năm 2013 thì trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung biến động do chuyển QSDĐ do Chính phủ quy định. Tại Điều 79 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định việc đăng ký biến động, cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ do chuyển quyền dựa trên cơ sở hồ sơ hợp đồng, Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.

Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP, thì việc cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 Luật Đất đai năm 2013) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực. Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển QSDĐ mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy Giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển QSDĐ vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.

3. Quy định của Luật Đất đai năm 2024 về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp

Tại khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai năm 2024 quy định về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp như sau:

“2. Nhà nước thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất ghi trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp;

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp;

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất;

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận;

đ) Giấy chứng nhận đã cấp bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy;

e) Trường hợp đấu giá, giao quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án mà người phải thi hành án không nộp giấy chứng nhận đã cấp.

3. Việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này mà không thuộc khoản 4 Điều này được thực hiện theo quy định sau đây:

a) Trường hợp Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai có bản án, quyết định có hiệu lực thi hành, trong đó có kết luận về việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp thì việc thu hồi giấy chứng nhận đã cấp được thực hiện theo bản án, quyết định đó;

b) Trường hợp cơ quan thanh tra có văn bản kết luận giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm xem xét, nếu kết luận đó là đúng thì quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp; trường hợp xem xét, xác định giấy chứng nhận đã cấp là đúng quy định của pháp luật thì phải thông báo lại cho cơ quan thanh tra;

c) Trường hợp cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại Điều 136 của Luật này phát hiện giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì kiểm tra lại, thông báo cho người sử dụng đất biết rõ lý do và quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định;

d) Trường hợp người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phát hiện giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai thì gửi kiến nghị bằng văn bản đến cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có trách nhiệm kiểm tra, xem xét, quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định của pháp luật về đất đai;

đ) Cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đã cấp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này là cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại Điều 136 của Luật này.

4. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại Điều 136 của Luật này không thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này nếu người được cấp giấy chứng nhận đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Việc xử lý thiệt hại do việc cấp giấy chứng nhận tại khoản này thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án. Người có hành vi vi phạm bị xử lý theo quy định tại Điều 239 và Điều 240 của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

5. Việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đã cấp không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã được thi hành hoặc văn bản kiến nghị của cơ quan thi hành án về việc thi hành bản án, quyết định theo quy định của pháp luật, trong đó có nội dung yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận đã cấp.

6. Trường hợp thu hồi giấy chứng nhận đã cấp theo quy định tại khoản 2 và khoản 5 Điều này mà người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không giao nộp giấy chứng nhận đã cấp thì cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại Điều 136 của Luật này quyết định hủy giấy chứng nhận đã cấp.

7. Cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất quy định tại Điều 136 của Luật này thực hiện việc cấp giấy chứng nhận theo quy định của pháp luật sau khi thu hồi giấy chứng nhận đã cấp”.

Có thể nhận thấy, các trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp của Luật Đất đai năm 2024 có sự thay đổi so với Luật Đất đai năm 2013. Theo đó, Luật Đất đai năm 2024 quy định 6 trường hợp Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp bao quát hầu hết các trường hợp phát sinh trong thực tiễn và nhằm hoàn thiện, cụ thể hóa các quy định pháp lý liên quan đến việc thu hồi giấy chứng nhận. Đặc biệt là Luật Đất đai năm 2024 bổ sung trường hợp thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp nếu bị Tòa án tuyên hủy, nhằm tăng cường tính pháp lý của việc thu hồi giấy chứng nhận.

4. Quan điểm và bình luận

Quy định tại điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013 và điểm d khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai năm 2024 không ghi nhận việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ “trái quy định của pháp luật” hoặc cấp “sai quy định của pháp luật” mà chỉ sử dụng cụm từ “không đúng”. Cụ thể như sau: Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận.

Vấn đề đặt ra từ quy định về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp theo quy định tại Điều 152 Luật Đất đai năm 2024 thì Tòa án tuyên hủy hay thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp trái quy định của pháp luật. Trong khi, quy định tại khoản 1 Điều 34 BLTTDS năm 2015 thì chỉ quy định “hủy quyết định cá biệt trái pháp luật”.

Tác giả cho rằng, để xác định quyết định cá biệt có rõ ràng trái pháp luật hay không, thì cần tham khảo tinh thần hướng dẫn tại khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2014 của TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn thi hành Điều 32a của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS. Theo đó:

“1. Quyết đnh cá biệt rõ ràng trái pháp luật có thể bị Tòa án xem xét hy khi giải quyết vụ việc dân sự nếu có đủ các điều kiện sau đây:

a) Quyết định cá biệt là quyết định hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật Tố tụng hành chính và hướng dẫn tại điểm a và b khoản 1 Điều 1 Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29 tháng 7 năm 2011 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính;

b) Quyết định cá biệt được ban hành không đúng thẩm quyền, thủ tục, nội dung do pháp luật quy định xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Tòa án đang có nhiệm vụ giải quyết”.

Theo Từ điển tiếng Việt, thì: Hủy là làm cho không còn tồn tại hoặc không còn giá trị nữa; còn hủy bỏ là bỏ đi, coi là hoàn toàn không còn có hiệu lực hoặc giá trị nữa[4]; và thu hồi là thu về, lấy lại cái trước đó đã đưa ra, đã cấp phát hoặc bị mất vào tay kẻ khác[5]. Như vậy, có thể hiểu hủy Giấy chứng nhận QSDĐ là làm cho giấy chứng nhận không còn tồn tại hoặc không còn giá trị nữa; còn thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ là thu về, lấy lại giấy chứng nhận đã cấp. Tuy nhiên, mục đích của việc hủy hay thu hồi thì cũng làm cho Giấy chứng nhận QSDĐ đó không còn giá trị nữa.

Quy định tại khoản 6 Điều 152 Luật Đất đai năm 2024 cho thấy: Trong trường hợp, Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sẽ ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, nếu người sử dụng đất không giao nộp giấy chứng nhận đã cấp thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ra quyết định hủy giấy chứng nhận đã cấp. Tác giả cho rằng, quy định này tạo sự nhọc nhằn, mất thời gian và tốn kém công sức, chi phí của Nhà nước, lẽ ra khi Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận QSDĐ, thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ra quyết định hủy giấy chứng nhận đã cấp là được.

Vấn đề đặt ra tiếp theo là nếu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận QSDĐ thì thẩm quyền giải quyết thuộc TAND cấp tỉnh và cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai năm 2024. Ngược lại, nếu Tòa án tuyên đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, thì thẩm quyền giải quyết thuộc TAND cấp huyện và cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 152 Luật Đất đai năm 2024. Như vậy, có thể nhận thấy việc Tòa án tuyên hủy hay thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ, thì kết quả vẫn như nhau, đó là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và chỉ khác nhau về thẩm quyền của Tòa án giải quyết, đó là thuộc TAND cấp huyện hay cấp tỉnh.

Thực tiễn xét xử cho thấy, có rất nhiều TAND cấp huyện tuyên đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, với quan điểm như sau: Trường hợp khi giải quyết vụ việc có liên quan đến quyết định cá biệt nhưng không cần thiết phải hủy quyết định cá biệt đó và việc không hủy quyết định đó vẫn đảm bảo giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự thì Tòa án đang giải quyết vụ việc dân sự tiếp tục giải quyết. Do đó, TAND cấp huyện căn cứ vào Điều 34 BLTTDS năm 2015 tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng theo luật định[6]. Thậm chí, còn có đề xuất án lệ về thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với yêu cầu hủy quyết định cá biệt trong vụ án dân sự[7]. Đề xuất này đã đưa ra tình huống án lệ như sau: TAND cấp huyện thụ lý vụ án dân sự về tranh chấp đòi lại tài sản là QSDĐ có yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; có căn cứ xác định quyết định này được ban hành đúng pháp luật, không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; và giải pháp pháp lý như sau: Trường hợp này, TAND cấp huyện đang giải quyết vụ án dân sự được tiếp tục giải quyết.

Trên cơ sở quy định về thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp của Luật Đất đai năm 2024 như đã phân tích nêu trên, tác giả cho rằng, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nếu có đương sự yêu cầu hoặc có căn cứ để xác định Giấy chứng nhận QSDĐ đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận, thì Tòa án tuyên thu hồi giấy chứng nhận đã cấp và cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ sẽ ra quyết định thu hồi lại giấy chứng nhận đã cấp khi bản án có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp người được cấp giấy chứng nhận đã thực hiện chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai và Tòa án có thẩm quyền giải quyết là TAND cấp huyện.

 
 

ThS. PHAN THÀNH NHÂN (TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp)

[1] Mục 1 Phần I Giải đáp số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của TANDTC về việc giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự đã giải đáp như sau: Căn cứ vào quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và khoản 16 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013, thì Giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính; nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

[2] Tòa án nhân dân tối cao (2015), Bản thuyết minh về dự án BLTTDS (sửa đổi) ngày 26/02/2015, tr.7.

[3] Kể từ thời điểm BLTTDS năm 2015 ra đời, thì tính đến nay đã có tổng cộng 7 văn bản giải đáp nghiệp vụ: (1) Mục II Giải đáp nghiệp vụ số 02/2016/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016; (2) Điểm 2 Mục IV Giải đáp nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017; (3) Mục 3 Giải đáp nghiệp vụ số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2018; (4) Điểm 2 Mục III Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019; (5) Điểm 7 Mục IV Công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020; (6) Điểm 7 Mục IV Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021; (7) Điểm 3 Mục III Công văn số 196/TANDTC-PC ngày 03/10/2023.

[4] Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016, tr.593.

[5] Viện Ngôn ngữ học - Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2016, tr.1212.

[6] Quyết định giám đốc thẩm số 185/2023/DS-GĐT ngày 11/8/2023 về việc “Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của TAND cấp cao tại Thành phố H giữa nguyên đơn là ông Nhịn Tắc Hùng D, bà Võ Thị M và bị đơn là bà Nguyễn Thị P.

[7] Dự thảo án lệ số 09/2024 như sau:

Nguồn án lệ: Quyết định giám đốc thẩm số 185/2023/DS-GĐT ngày 11/8/2023 về việc “Đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” của TAND cấp cao tại Thành phố H giữa nguyên đơn là ông Nhịn Tắc Hùng D, bà Võ Thị M và bị đơn là bà Nguyễn Thị P, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 6 người.

Nguồn: https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitietanleduthao?dDocName=TAND332628, truy cập ngày 13/8/2024.

Ảnh minh hoạ - Nguồn Internet.