Thể chế hóa đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW
Ngày 11/9, tại Hà Nội, Tạp chí Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Công ty Luật TNHH Trương Anh Tú (TAT Law Firm) đã phối hợp tổ chức Diễn đàn khoa học với chủ đề: “Thể chế hóa đổi mới sáng tạo - Bảo vệ tài sản vô hình theo tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW”.
Toàn cảnh Diễn đàn khoa học
Tham dự Diễn đàn có ông Lê Huy Anh, Phó Cục trưởng Cục SHTT; ông Đoàn Duy Hiệp, Thanh tra Chính phủ; bà Trần Minh Huệ, Phó Phòng Công nghệ & Kinh tế số, Sở KH&CN Hà Nội; Luật sư Nguyễn Văn Hà, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hà Nội; đại diện Học viện Tư pháp; đại diện Trường Đại học Luật Hà Nội; Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam cùng các doanh nghiệp, luật sư, chuyên gia pháp lý và cơ quan thông tấn báo chí tham dự đưa tin.
Về phía Ban Tổ chức có ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam và Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm, Ủy viên Thường vụ Trung ương Hội Kinh tế Môi trường Việt Nam.
Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam nhận định, Luật Sở hữu Trí tuệ (SHTT) không chỉ là công cụ pháp lý bảo vệ, nâng niu đổi mới sáng tạo, mà còn trở thành “lá chắn” để doanh nghiệp trụ vững trong kỷ nguyên số.
Thạc sĩ Đặng Ngọc Luyến, Tổng Biên tập Tạp chí Luật sư Việt Nam
Tuy nhiên, thực trạng xâm phạm quyền SHTT tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp, từ hàng giả, hàng nhái cho tới việc nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có nguồn lực để tự bảo vệ thương hiệu. Điều này đặt ra thách thức cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, xây dựng thể chế, tăng cường hiệu quả phối hợp thực thi đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp cùng nhiều nguồn lực khác.
Tài sản vô hình là một trong những nguồn lực phát triển đất nước
Trong bối cảnh đất nước đang hội nhập quốc tế sâu rộng, việc đổi mới sáng tạo đã trở thành yêu cầu then chốt trong phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Do đó, việc hoàn thiện thể chế pháp lý, hoàn thiện các chính sách pháp luật là vô cùng cấp thiết. Nghị quyết 57- NQ/TW đã định hướng rõ việc đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tiếp nối tinh thần đó, Nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân ra đời với kỳ vọng là đòn bẩy quan trọng để hoàn thiện thể chế bảo vệ quyền sáng tạo của doanh nghiệp tư nhân, đặt ra yêu cầu cần thể chế hóa nhằm bảo vệ “tài sản vô hình”.
Trình bày tham luận tại Diễn đàn, luật sư Trương Anh Tú - Chủ tịch TAT Law Firm cho biết, lần đầu tiên trong lịch sử các văn kiện của Đảng, Nghị quyết 68-NQ/TW đã nêu đích danh “tài sản vô hình” là một nguồn lực then chốt. Đây là bước ngoặt về tư duy sẵn sàng đổi mới, không chỉ đặt ra vấn đề về bảo vệ tài sản vô hình, mà còn xác định phương hướng coi đây là vấn đề chiến lược của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Luật sư Trương Anh Tú, Chủ tịch TAT Law Firm trình bày tham luận
Cụ thể, Nghị quyết khẳng định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia”; “phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao vừa là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, vừa mang tính chiến lược lâu dài”; “Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam”; “bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng”; “bảo đảm kinh tế tư nhân cạnh tranh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong tiếp cận cơ hội kinh doanh và các nguồn lực của nền kinh tế, nhất là vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực, dữ liệu và các nguồn lực hợp pháp khác”.
Ông Tú nhận định, trong nền kinh tế tri thức, sự khác biệt không nằm ở quy mô nhà xưởng, mà nằm ở chỉ số sáng tạo và giá trị tài sản trí tuệ. Câu hỏi được đặt ra: Tại Việt Nam, có bao nhiêu doanh nghiệp được ngân hàng cho vay dựa trên giá trị thương hiệu hay bản quyền? Vấn đề không nằm ở thị trường, mà nằm ở luật pháp chưa đủ mạnh để công nhận và tài chính hóa các tài sản vô hình.
Qua đó, luật sư Trương Anh Tú đề xuất chính sách nhằm từ luật bảo vệ sang luật phát triển. Cụ thể, ba trụ cột chính sách cần được thể chế hóa ngay:
Một, ghi nhận IP là tài sản tài chính hóa được. Theo đó, pháp luật phải cho phép IP được hạch toán, làm tài sản góp vốn, làm tài sản bảo đảm.
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp và Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các chuẩn mực định giá, chuẩn mực ghi nhận IP trong báo cáo tài chính.
Hai, hình thành thị trường và hệ sinh thái định giá – giao dịch IP. Theo đó, cần xây dựng trung tâm định giá IP quốc gia, phát triển sàn giao dịch IP và quỹ đầu tư mạo hiểm dựa trên IP.
Ba, bảo vệ quyền sở hữu mạnh mẽ – xử lý nghiêm vi phạm IP. Luật sư Tú cho rằng, Tòa án chuyên trách SHTT cần được kiện toàn và cơ chế thi hành án IP phải minh bạch, hiệu quả, răn đe.
Tăng cường kết nối hành động để chính sách từng bước đi vào thực tiễn
Phát biểu tranh luận tại Diễn đàn, luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm cho biết, hiện nay, kinh tế tư nhân đóng vai trò là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quốc gia, góp phần lớn vào GDP, tạo việc làm, thu ngân sách, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, và tăng cường năng lực cạnh tranh.
Luật sư Mai Thị Thảo, Phó Giám đốc TAT Law Firm trao đổi ý kiến tại Diễn đàn
Hiện nay, hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam là tương đối đầy đủ, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đã tham gia nhiều điều ước quốc tế quan trọng như Hiệp định TRIPS hay CPTPP… Tuy nhiên, một nghịch lý vẫn đang hiện hữu rất rõ: Pháp luật không thiếu, nhưng doanh nghiệp vẫn cứ mất thương hiệu.
Từ thực tiễn hành nghề, luật sư cũng đã chia sẻ về một số vụ việc điển hình thể hiện rất rõ những khoảng trống trong bảo vệ thương hiệu, sở hữu trí tuệ hiện nay, như: vụ Nhựa Bình Minh; vụ Công ty Bảo vệ Long Hải; Vụ Gạo ST25…
Vấn đề không chỉ là hành vi “nhái tên” hay xâm phạm nhãn hiệu, mà còn nghiêm trọng hơn ở cách hệ thống tư pháp đánh giá chứng cứ trong một vụ xâm phạm thương hiệu. Những yếu tố cốt lõi như lịch sử hoạt động, mức độ nhận diện công chúng, thị phần chi phối và sự gắn bó tâm lý của người tiêu dùng. Những thứ đáng ra phải là nền tảng bảo vệ, thì lại bị xem nhẹ so với các tiêu chí hình thức.
Nếu sự nổi tiếng tích lũy qua nhiều thập kỷ không được bảo vệ tương xứng, thì phải chăng pháp luật đang vô tình gửi đi một thông điệp sai lệch: thương hiệu có bề dày vẫn có thể bị đối xử ngang hàng với những cái tên mới xuất hiện. Đó không chỉ là bất công với doanh nghiệp, mà còn là nguy cơ làm suy giảm niềm tin vào năng lực bảo vệ tài sản vô hình của hệ thống pháp luật.
Trên cương vị tiên phong trong bảo vệ quyền lợi hợp pháp, hỗ trợ doanh nghiệp trong các hoạt động kinh tế, khoa học và công nghệ, ông Phạm Văn Hùng, đại diện Ban Pháp chế VCCI đã trình bày tham luận làm rõ vai trò thể chế hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, thực tiễn từ doanh nghiệp.
Theo đó, một số bất cập, vướng mắc về quản lý trong đổi mới sáng tạo được ông Hùng làm rõ. Cụ thể, các quy định về giấy phép và điều kiện áp dụng cho mọi quy mô và hình thức hoạt động, tạo rào cản lớn cho các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, vốn cần sự linh hoạt để thử nghiệm và phát triển…
Bên cạnh đó, nhiều mô hình kinh doanh hoặc công nghệ mới chưa rõ ràng về khả năng thành công, đòi hỏi không gian và thời gian để thử nghiệm. Việc áp dụng các quy định cứng nhắc ngay từ đầu có thể "bóp nghẹt" tiềm năng phát triển. Điều này tạo ra áp lực kép cho các doanh nghiệp: Vừa phải đối mặt với áp lực thị trường đầy cạnh tranh, vừa phải chịu áp lực từ quản lý hành chính với các quy định chặt chẽ, đôi khi không phù hợp với bản chất thử nghiệm của đổi mới sáng tạo.
Ông Phạm Văn Hùng, đại diện Ban Pháp chế VCCI
Đại diện pháp chế VCCI cho rằng, đối với Việt Nam, đổi mới sáng tạo không nhất thiết là phải tạo ra cái gì hoàn toàn mới trên thế giới, mà là làm được điều gì đó mới và hiệu quả trong bối cảnh cụ thể. Doanh nghiệp Việt Nam thường phải đối mặt với áp lực lớn: Sản phẩm phải rẻ hơn các nước khác nhưng chất lượng phải tương đương hoặc vượt trội. Đây là thách thức nhưng cũng là động lực để tìm kiếm những giải pháp sáng tạo, đột phá hơn.
Sau thời gian 2 phiên làm việc, các đại biểu tham gia Diễn đàn đã được lắng nghe các chia sẻ, kinh nghiệm thực tiễn của đại diện cơ quan quản lý nhà nước, các chuyên gia, luật sư về lĩnh vực “tài sản vô hình”. Đây là nguồn quan trọng để cơ quan xây dựng, thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ nghiên cứu, tham khảo để hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này trong thời gian tới.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI
Phát biểu tổng kết Diễn đàn, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế của VCCI bày tỏ sự đồng tình với các ý kiến của các chuyên gia, cơ quan quản lý, giới doanh nghiệp. Đồng thời, ông cũng đánh giá sự quan trọng của sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong đầu tư đối với Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về sở hữu trí tuệ như việc giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ còn chưa triệt để; thiếu nhân lực và chuyên môn;…
Với những ý kiến được chia sẻ, ông Tuấn tin tưởng răng đây sẽ thực sự trở thành một diễn đàn học thuật và thực tiễn ý nghĩa, khẳng định vai trò không thể thiếu của cộng đồng chuyên gia, cơ quan quản lý, giới doanh nghiệp và thông tấn báo chí trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo gắn với thể chế, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Chia tài sản khi nam nữ sống chung như vợ chồng nhưng không đăng ký kết hôn – một số khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị
-
Lời cảm ơn của Ban Tổ chức concert “Việt Nam trong tôi”
-
Trao đổi bài viết “Chiếc ghe máy đánh bắt cá có được xác định là tài sản mà Phạm Hữu V đã trộm cắp của ông Nguyễn Văn C không?”
-
Cấn Thành Đ, Nguyễn Đức V, Nguyễn Đức A và Nguyễn Gia B có phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015 không?
-
Bắt khẩn cấp “ông bầu” Cao Tiến Đoan
Bình luận