Trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ giải quyết vụ án dân sự - Một số vấn đề cần lưu ý và đề xuất, kiến nghị

Tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự quy định đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp . Tuy nhiên, trong một số trường hợp Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ trong những trường hợp do Bộ luật này quy định. Quy định về trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ giải quyết vụ án dân sự hiện nay có một số thay đổi, cần bảo đảm thống nhất trong nhận thức để áp dụng pháp luật hiệu quả.

1. Quy định về trách nhiệm hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ giải quyết vụ án dân sự

Điểm e khoản 1 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS năm 2015) quy định:

“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ bằng những biện pháp sau đây:

….

e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ;”.

Khoản 3 Điều 106 BLTTDS năm 2015 quy định:

“3. Trường hợp có yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Việc xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án”.

Theo quy định của điều luật nêu trên thì cần xác định trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ thuộc về đương sự trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, trường hợp đương sự không thể thu thập được tài liệu, chứng cứ thì có quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ. Trường hợp này, vấn đề đặt ra là trách nhiệm của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ được xác định như thế nào?

Trước đây, khoản 4 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định:

Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính và thực hiện các quyền hạn khác theo quy định của luật tố tụng”.

Nội dung này đã có thay đổi căn bản tại Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024, sửa đổi, bổ sung năm 2025 (sau đây gọi chung là Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024), cụ thể, khoản 4 Điều 15 quy định:

“4. Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ bằng việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật trong trường hợp các bên đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ.”.

Như vậy, Luật Tổ chức Tòa án năm 2024 xác định rõ, trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ là của đương sự chứ không phải của Tòa án. Đây là điểm khác cơ bản so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 đã quy định Tòa án có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ mà đương sự không cung cấp được.

Việc ghi nhận rõ Tòa án không có trách nhiệm thu thập chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án dân sự mà chỉ có trách nhiệm hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ khi có yêu cầu là hoàn toàn phù hợp, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, công bằng. Bởi lẽ, việc Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ rồi lại đánh giá chứng cứ đó thì có thể dẫn đến việc không đảm bảo tính khách quan khi giải quyết vụ việc, “Tòa thu thập chứng cứ có lợi cho nguyên đơn thì lệch về bên nguyên đơn; tòa thu thập chứng cứ có lợi cho bên bị đơn thì lệch về bên bị đơn” (Phát biểu của Chánh án TANDTC tại kỳ hợp thứ 6 Quốc hội khóa XV, chiều 22/11/2023). Điều này sẽ dễ phát sinh khiếu nại, tố cáo khi đương sự cho rằng, Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ theo hướng có lợi cho bên này, bất lợi cho bên kia. Tòa án có vai trò như người trọng tài trong việc phân xử các tranh chấp, khiếu kiện nhưng lại thực hiện thêm việc thu thập chứng cứ nữa là không phù hợp với vị trí, vai trò của người trọng tài. Vì vậy, quy định “Tòa án không có trách nhiệm thu thập chứng cứ mà nghĩa vụ đó thuộc về các đương sự” là cần thiết, tiệm cận với quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của nhiều quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển cao (theo hệ thống Common law), phù hợp với thực tiễn công tác xét xử của hệ thống Tòa án, giải quyết được nhiều vướng mắc, bất cập cho cơ quan Tòa án nói chung và các Thẩm phán nói riêng.[1]

2. Một số vấn đề cần lưu ý trong áp dụng pháp luật

Như đã phân tích ở trên, trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 quy định Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ mà không có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự. Vấn đề này cần được làm rõ trong so sánh, đối chiếu với quy định của BLTTDS năm 2015 để bảo đảm thống nhất trong áp dụng.

Khoản 3 Điều 107 BLTTDS năm 2015 quy định:

“3. Trường hợp … khi xét thấy cần thiết, Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.”.

Điều 97 BLTTDS năm 2015 quy định về xác minh, thu thập chứng cứ như sau:

“…

2. Trong các trường hợp do Bộ luật này quy định, Tòa án có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập tài liệu, chứng cứ:

a) Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng;

b) Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;

c) Trưng cầu giám định;

d) Định giá tài sản;

đ) Xem xét, thẩm định tại chỗ;

e) Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;

g) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự;

h) Xác minh sự có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú;

i) Các biện pháp khác theo quy định của Bộ luật này.

3. Khi tiến hành các biện pháp quy định tại các điểm c, d, đ, e và g khoản 2 Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.

4. Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến hành các biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ quy định tại các điểm a, g và h khoản 2 Điều này.
Khi 
Thẩm tra viên tiến hành biện pháp quy định tại điểm g khoản 2 Điều này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án.

5. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo về tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.

…”.

So sánh quy định nêu trên của BLTTDS năm 2015 và Điều 15 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 có quan điểm cho rằng hai văn bản này có quy định khác nhau về trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự, theo đó, luồng quan điểm này cho rằng, quy định tại BLTTDS năm 2015 là quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án. Cụ thể, khi xét thấy cần thiết thì Tòa án tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ chứ bằng việc ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án mà không cần phải có yêu cầu từ đương sự trong vụ án. Tuy nhiên, cách hiểu này là chưa chính xác.

Thứ nhất, cần thống nhất về mặt nhận thức, quan điểm sau: Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, đưa ra các yêu cầu để Tòa án giải quyết khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Đồng thời, cùng với quyền khởi kiện, quyền yêu cầu thì đương sự có trách nhiệm tìm kiếm, thu thập tài liệu, chứng cứ để gửi kèm nhằm chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Tòa án không có trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ thay cho đương sự. Điều này bảo đảm sự thống nhất về nhận thức pháp luật của cả các cơ quan, người tiến hành tố tụng là Tòa án không làm thay nhiệm vụ này cho đương sự, bên cạnh đó, thống nhất nhận thức về nội dung này sẽ làm tăng trách nhiệm của đương sự khi đưa ra yêu cầu, hạn chế đưa ra các yêu cầu không có căn cứ, giảm thiểu gánh nặng cho Tòa án. Tòa án chỉ đóng vai trò là trung gian, xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong vụ án để đưa ra phán quyết một cách công bằng, khách quan nhất.

Thứ hai, thực tiễn xét xử và quy định của pháp luật dân sự ghi nhận việc bảo vệ cho những người yếu thế, bên cạnh đó, do hiểu biết pháp luật của người dân chưa cao, chưa có sự đồng đều giữa các vùng, miền; sự hiểu biết pháp luật của người dân ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số thường thaoas hơn người dân ở đô thị,… Bên cạnh đó, xuất phát từ thực tiễn  nhiều cơ quan, tổ chức chưa thực sự yên tâm cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của các đương sự nếu không có sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền như Tòa án. Do đó, trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ là của đương sự nhưng Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự khi thỏa mãn 02 điều kiện: (i) các bên đã thực hiện các biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ, (ii) đề nghị Tòa án hỗ trợ.

Thứ ba, quy định của BLTTDS năm 2015 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 hoàn toàn không có sự khác nhau mà thống nhất nhau. Cụ thể: cần xác định, trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ là của đương sự, Tòa án không có trách nhiệm này. Tòa án chỉ thực hiện việc hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ khi xét thấy cần thiết (khoản 3 Điều 107 BLTTDS năm 2015) – trường hợp Tòa án xét thấy cần thiết là trường hợp thỏa mãn 02 điều kiện đã phân tích ở trên. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 và BLTTDS năm 2015 đều ghi nhận việc Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự bằng việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật (quy định tại Điều 91 BLTTDS năm 2015).

Ngoài ra, khoản 2 Điều 15 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 cũng quy định Tòa án hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ trong vụ án hành chính, vụ việc dân sự và các vụ việc khác theo quy định của pháp luật.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Quy định về trách nhiệm của Tòa án đối với việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong giải quyết vụ án dân sự tại Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 có thay đổi căn bản so với quy định tại Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 như đã phân tích ở trên. Sự thay đổi này là phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta cũng như phù hợp với xu hướng xây dựng pháp luật của thế giới; tuy nhiên, đây là quy định mới nên cần có những giải pháp đồng bộ để bảo đảm cho quy định này phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Chúng tôi xin nêu ra một số đề xuất, kiến nghị sau đây:

Thứ nhất, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền để người dân hiểu rõ trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ để cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp là thuộc về các bên đương sự chứ không phải thuộc trách nhiệm của Tòa án. Thực tế hiện nay, nhiều người dân vẫn có quan điểm cho rằng trách nhiệm chứng minh trong vụ án là của Tòa án, do đó, họ chỉ gửi đơn khởi kiện và đưa ra yêu cầu, Tòa án phải thực hiện việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án. Điều này khiến Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án dân sự. Một trong những hình thức tuyên truyền mà chúng tôi cho rằng thiết thực và hiệu quả mà Tòa án cần chủ động thực hiện, đó là, cùng với việc hướng dẫn cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ trong vụ án dân sự thì Tòa án phổ biến, giải thích rõ cho những chủ thể này về trách nhiệm thu thập chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Việc này cần được bảo đảm thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất ở Tòa án các cấp trong cả nước. Muốn xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì yêu cầu đặt ra là phải nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Trong trường hợp này, người dân cần xác định việc quyết định khởi kiện hay không là quyền của người dân; đồng nghĩa với việc trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp là trách nhiệm của người dân, để họ cân nhắc khi khởi kiện, tránh việc khởi kiện mà không có căn cứ khi cho rằng, được quyền đưa ra yêu cầu, còn trách nhiệm chứng minh thuộc Tòa án.

Thứ hai, về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu.

Khoản 3 Điều 106 BLTTDS năm 2015 quy định: “…Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; hết thời hạn này mà không cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án thì cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật…”.

Chúng tôi cho rằng, cùng với việc ghi nhận lại một cách cụ thể trách nhiệm thu thập chứng cứ, tài liệu trong vụ án dân sự thì cần ghi nhận về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc cung cấp chứng cứ khi có yêu cầu của cả đương sự chứ không chỉ với Tòa án. Theo đó, khi sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015, nhà làm luật cần nghiên cứu bổ sung quy định trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không thực hiện yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của đương sự mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm cũng có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Việc ghi nhận bổ sung nội dung này để bảo đảm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo đảm cho điều luật có hiệu lực trong thực tiễn.

Kết luận

Ngày nay, các tranh chấp dân sự ngày càng nhiều, do đó, số lượng các vụ án dân sự mà các Tòa án phải thụ lý, giải quyết ngày càng tăng, điều này tạo áp lực lớn cho Tòa án. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 ra đời với những sửa đổi, bổ sung mới về trách nhiệm của Tòa án trong thu thập chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án dân sự cần được hiểu một cách thống nhất với các quy định của BLTTDS năm 2015. Với việc phân tích, làm rõ một số nội dung về trách nhiệm của Tòa án trong thu thập chứng cứ, tài liệu để giải quyết vụ án dân sự; cùng với việc đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cụ thể, chúng tôi mong muốn việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn được hiệu lực, hiệu quả.

 

[1] Xem: https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitietnghiencuu?dDocName=TAND331687, truy cập ngày 05/8/2025.

TRIỆU THỊ LOAN (Thư ký Tòa án nhân dân khu vực 8, Hải Phòng), VŨ THỊ HÀ (Thẩm phán bậc 1 Tòa án nhân dân khu vực 8, Hải Phòng).

Ảnh: nguồn Internet

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;

3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.

4. Xem thêm:

https://anle.toaan.gov.vn/webcenter/portal/anle/chitietnghiencuu?dDocName=TAND331687, truy cập ngày 05/8/2025.