Trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự - thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết tập trung phân tích cơ sở pháp lý của chế định trách nhiệm liên đới của vợ chồng, đánh giá thực tiễn áp dụng thông qua các bản án, đồng thời đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thống nhất nhận thức và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn xét xử.

Đặt vấn đề

Chế định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm sự công bằng, ổn định trong các giao dịch dân sự và trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có quy định về vấn đề này, tuy nhiên trên thực tế, việc xác định phạm vi trách nhiệm liên đới của vợ chồng vẫn còn nhiều vướng mắc, đặc biệt trong các trường hợp một bên thực hiện giao dịch nhưng liên quan đến tài sản chung hoặc lợi ích chung của gia đình.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, quan hệ hôn nhân không chỉ là quan hệ tình cảm mà còn là chủ thể của nhiều quan hệ pháp lý, đặc biệt là quan hệ dân sự và nghĩa vụ tài sản. Việc một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch dân sự có thể làm phát sinh nghĩa vụ liên quan đến tài sản chung hoặc quyền lợi chung của gia đình. Khi phát sinh tranh chấp, việc xác định trách nhiệm riêng hay liên đới giữa vợ và chồng có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên liên quan cũng như bảo đảm sự ổn định của các giao dịch dân sự. Mặc dù pháp luật hiện hành đã có quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng, song trong thực tiễn xét xử, cách hiểu và áp dụng còn thiếu thống nhất. Có trường hợp Tòa án buộc cả hai vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới, nhưng cũng có trường hợp chỉ một bên phải chịu nghĩa vụ, dù giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nguyên nhân chủ yếu là do quy định của pháp luật còn khái quát, thiếu tiêu chí cụ thể để xác định thế nào là “nhu cầu thiết yếu của gia đình” hay “giao dịch phục vụ lợi ích chung”, dẫn đến sự lúng túng trong thực tiễn áp dụng.

Từ thực trạng trên, việc nghiên cứu, làm rõ cơ sở pháp lý, nội dung và thực tiễn áp dụng trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự, đồng thời đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật là hết sức cần thiết nhằm bảo đảm tính thống nhất, công bằng và khả thi trong hoạt động xét xử.

1. Cơ sở pháp lý

Chế định trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự được ghi nhận và điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật Việt Nam, chủ yếu bao gồm:

- Hiến pháp năm 2013: Khẳng định nguyên tắc bình đẳng giới và bình đẳng giữa vợ và chồng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội (Điều 26, Điều 36). Đây là cơ sở hiến định để xác lập quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự của vợ, chồng một cách bình đẳng và tương xứng.

- Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015): Điều 288 và Điều 290 quy định về nghĩa vụ liên đới và thực hiện nghĩa vụ liên đới, tạo nền tảng pháp lý chung cho việc xác định trách nhiệm của nhiều chủ thể trong cùng một nghĩa vụ dân sự. Các quy định này được áp dụng để xác định trách nhiệm liên đới của vợ và chồng khi một bên xác lập giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung hoặc lợi ích chung của gia đình.

- Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 (LHNGĐ 2014):

Điều 27: Quy định cụ thể về trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hoặc phù hợp với quy định về đại diện giữa vợ và chồng.

Điều 30: Quy định về đại diện giữa vợ và chồng, là cơ sở để xác định khi nào hành vi của một bên làm phát sinh quyền, nghĩa vụ chung.

Điều 33, 37: Xác định tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng.

Điều 45: Xác định nghĩa vụ riêng của vợ hoặc chồng, giúp phân biệt phạm vi trách nhiệm liên đới và trách nhiệm cá nhân.

- Các văn bản hướng dẫn và án lệ liên quan:

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06/4/2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về nghĩa vụ trả nợ chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vay để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình - là nguồn tham khảo quan trọng trong việc thống nhất nhận thức pháp lý.

2. Thực tiễn áp dụng và những vướng mắc

2.1. Thực tiễn áp dụng tại Tòa án

Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân - gia đình, Tòa án phải xem xét vấn đề xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với nghĩa vụ tài sản phát sinh từ giao dịch do một bên thực hiện. Thực tiễn xét xử cho thấy có ba nhóm tình huống phổ biến:

1. Một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch vì nhu cầu thiết yếu của gia đình.

Ví dụ: mua sắm vật dụng sinh hoạt, chi tiêu cho con cái, sửa chữa nhà ở... Trong trường hợp này, Tòa án thường xác định đây là nghĩa vụ chung và cả hai vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới theo Điều 27 LHNGĐ 2014.

2. Một bên vợ hoặc chồng tự ý vay, mượn, thế chấp tài sản chung, nhưng chứng minh được mục đích phục vụ lợi ích chung. Tòa án thường buộc cả hai cùng chịu trách nhiệm nếu có căn cứ cho thấy bên kia biết hoặc được hưởng lợi từ giao dịch, hoặc giao dịch đó nhằm phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh chung của gia đình.

3. Một bên thực hiện giao dịch vì mục đích cá nhân, không vì lợi ích chung của gia đình. Trong trường hợp này, Tòa án xác định nghĩa vụ riêng, người còn lại không phải chịu trách nhiệm liên đới. Tuy nhiên, ranh giới giữa “mục đích cá nhân” và “lợi ích chung” đôi khi rất mờ nhạt, dẫn đến phán quyết khác nhau giữa các Tòa án.

Một ví dụ điển hình là Án lệ số 03/2016/AL, trong đó Tòa án nhân dân tối cao khẳng định: nếu một bên vay tiền để phục vụ nhu cầu thiết yếu của gia đình, dù người kia không trực tiếp tham gia giao dịch, cả hai vẫn phải chịu trách nhiệm liên đới trả nợ. Án lệ này có giá trị định hướng nhưng chưa được áp dụng thống nhất ở tất cả các địa phương.

2.2. Một số bản án tiêu biểu thể hiện sự khác biệt trong áp dụng quy định pháp luật về trách nhiệm liên đới của vợ chồng

Bản án số 186/2022/DS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh C.

Nội dung vụ án: Chị Nguyễn Như T tham gia 04 phần hụi do bà Lâm Hồng H mở vào ngày 10/10/2020 âm lịch, loại 1.000.000 đồng/tháng, gồm 38 phần. Quá trình tham gia hụi, ông Phan Phương N (chồng bà H) cùng bà H đi gom hụi và chị T đóng được 14 lần với số tiền bỏ hụi bình quân là 380.000 đồng/lần với tổng số tiền là 34.720.000 đồng và đến ngày 30/11/2021 âm lịch, ông N, bà H tuyên bố đình hụi. Tại phiên tòa, chị T xác định khi đình hụi, bà H đồng ý trả lại số tiền 50.000.000 đồng; tuy nhiên, qua phân tích của Hội đồng xét xử chị T tự nguyện giảm thêm số tiền 5.000.000 đồng và yêu cầu ông N, bà H trả lại tổng số tiền là 45.000.000 đồng.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã đến tống đạt các văn bản tố tụng cho ông N và bà H, ông N không đồng ý nhận và cho rằng không biết việc bà H mở hụi; còn bà H thì không có ý kiến gì về yêu cầu khởi kiện của chị T.

Hội đồng xét xử nhận định: Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của chị T tại phiên tòa phù hợp với danh sách hụi viên, các xác nhận của bà Phạm Thu H, bà Võ Lệ H và bà Trần Kim T, thể hiện: Chị T có tham gia 04 phần hụi loại 1.000.000 đồng/tháng, khui vào ngày 10/10/2020 âm lịch do bà H làm đầu thảo và đóng được 14 lần thì bà H đình hụi (ngày 30/11/2021). Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng bà H không có ý kiến phản đối nên đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Do dây hụi chưa mãn nên chị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện và yêu cầu trả số tiền là 45.000.000 đồng. Xét thấy, việc chị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện là tự nguyện, không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên được chấp nhận theo khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Quá trình giải quyết vụ án, ông N không đồng ý nhận văn bản tố tụng của Tòa án với lý do không biết việc bà H mở hụi nhưng ông N không có ý kiến phản đối hoặc cung cấp tài liệu, chứng cứ cho trình bày của mình. Mặt khác, dây hụi này phát sinh trong thời gian ông N và bà H tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp nên chị T khởi kiện yêu cầu ông N, bà H cùng có trách nhiệm liên đới trả số tiền hụi 45.000.000 đồng là phù hợp và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Vụ việc này cho thấy, nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do một bên vợ hoặc chồng xác lập, nhưng bên kia biết (hoặc buộc phải biết) thì cùng phải liên đới chịu trách nhiệm với bên có quyền.

Bản án số 372/2024/DS-ST  ngày 11/12/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh C.

Nội dung vụ án: Ông Ngô Chí L và bà Huỳnh Kim N là hụi viên tham gia hụi do bà Huỳnh Cẩm L làm chủ, cụ thể: Dây hụi mở ngày 10/01/2020 âm lịch, loại hụi 2.000.000 đồng, mỗi tháng khui một lần, có 45 phần, bà N và ông L tham gia 01 phần, đến lần thứ 10 bà N bỏ hụi hốt được số tiền 69.150.000 đồng. Sau đó, bà N đóng hụi đến phần hụi thứ 16 và ngưng không đóng hụi đến nay, còn nợ lại 29 kỳ hụi chết với số tiền 58.000.000 đồng.

Ngoài ra, bà N có mượn tiền bà L hai lần: Lần thứ nhất ngày 27/02/2020 số tiền 110.000.000 đồng; lần thứ hai ngày 06/7/2020 số tiền 70.000.000 đồng. Từ năm 2020 đến nay bà L nhiều lần yêu cầu bà N trả tiền hụi và mượn nêu trên nhưng bà N không thực hiện. Nay bà L yêu cầu ông L và bà N trả lại số tiền hụi 58.000.000 đồng, tiền mượn 180.000.000 đồng.

Bà N thống nhất toàn bộ lời trình bày của nguyên đơn và thống nhất có nợ nguyên đơn số tiền trên. Đối với số tiền hụi nợ theo giấy chốt hụi là 58.000.000 đồng, phần hụi này đã kết thúc nhưng chưa có khả năng thanh toán cho bà L, khi bà làm chủ hụi do hụi viên hốt hụi không đóng nên mới hốt hụi của bà L để lấp và đóng lãi khoản tiền vay của bà L. Bà có vay của bà L hai lần, lần thứ nhất 110.000.000 đồng, lần thứ hai 70.000.000 đồng, bà có ký biên nhận là đúng. Tuy nhiên, đây là tiền vay có tính lãi suất 40.000 đồng/tháng/1.000.000 đồng, đóng lãi đầy đủ từ khi vay 02/2020 đến tháng 02/2021 thì ngưng cho đến nay không trả lãi, vốn do làm ăn kinh tế thất bại, việc tính toán hụi sai khi làm đầu thảo dẫn đến vay nợ nhiều nơi và không còn khả năng chi trả. Khi bà với ông L đi Bình Dương làm thì lúc này ông L có biết bà vỡ nợ do làm hụi nhưng ông L không biết nợ bao nhiêu. Thời điểm bà mở hụi thì ông L làm tài xế, bà N may quần áo, kinh tế vợ chồng cùng làm, cùng chi sinh hoạt chung. Mục đích bà làm hụi cũng muốn kiếm thêm thu nhập tạo kinh tế trong gia đình. Nay bà N yêu cầu được trả dần vì hoàn cảnh kinh tế khó khăn và khoản nợ này bà N vay mượn để trả các khoản nợ khác, ông L không biết, bà yêu cầu một mình có trách nhiệm trả nợ.

Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho ông L biết về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông L không có ý kiến hay yêu cầu gì và không tham gia hòa giải, xét xử tại Tòa án.

Nhận định của Tòa án: Bà L yêu cầu ông L và bà N cùng có trách nhiệm trả nợ, bà N không đồng ý và yêu cầu một mình bà trả nợ cho bà L. Hội đồng xét xử xét thấy, bà N và ông L có mối quan hệ vợ chồng từ năm 1998, bà N thừa nhận quá trình chung sống bà và ông L làm kinh tế chung, khi bà N làm chủ hụi, vay tiền để lấp hụi mục đích là để tạo thêm thu nhập trong gia đình, ông L biết việc bà N làm hụi và bị vỡ nợ. Do đó, có cơ sở xác định là khoản nợ trên là nợ chung của ông L và bà N trong thời kỳ hôn nhân. Đồng thời, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo cho ông L biết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng ông L không có ý kiến hay yêu cầu gì. Đây là những tình tiết sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, cần buộc ông L và bà N cùng có trách nhiệm trả cho bà L số tiền hụi 58.000.000 đồng và tiền vay 180.000.000 đồng là phù hợp.

Theo tác giả, trong vụ án này, Tòa án đã xác định không đúng nghĩa vụ liên đới, vì chưa đủ căn cứ để xác định nghĩa vụ trả nợ khoản tiền vay là nghĩa vụ liên đới của vợ chồng, mà đây là nghĩa vụ riêng của bà L. Chính bà L cũng thừa nhận chồng bà không biết việc vay tiền và bà sẽ trả nợ một mình.

Bản án số 09/2025/DS-ST  ngày 11/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực A - C.

Nội dung vụ án: Vào ngày 25/3/2013 âm lịch, vợ chồng ông Trịnh Hoàng N, bà Tống Thị D có tham gia 01 phần hụi 2.000.000 đồng và ngày 30/8/2014 tham gia 01 phần hụi 2.000.000 đồng, mỗi tháng khui một lần do vợ chồng bà Nguyễn Hồng D, ông Trần Hoàng L làm chủ, sau đó thì vợ chồng bà D, ông L tuyên bố đình hụi ngày 25/3/2016. Đến ngày 04/5/2025, bà D viết giấy nợ tiền hụi cho ông N với số tiền 76.680.000 đồng. Ông N yêu cầu vợ chồng bà D, ông L cùng có trách nhiệm trả số tiền 76.680.000 đồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, bà D, ông L đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không có ý kiến phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và vắng mặt không rõ lý do.

Nhận định của Tòa án: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn bà Nguyễn Hồng D trả số tiền hụi 76.680.000 đồng. Bà D không phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xét thấy, yêu cầu của nguyên đơn phù hợp với Giấy thiếu nợ tiền hụi ngày 04/5/2025 và phù hợp với tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định bà D là người trực tiếp giao dịch hụi và còn nợ nguyên đơn số tiền 76.680.000 đồng là thực tế có xảy ra, nên bà D phải có nghĩa vụ thanh toán cho nguyên đơn số tiền 76.680.000 đồng là phù hợp.

Nguyên đơn yêu cầu ông Trần Hoàng L cùng có trách nhiệm với bà D thanh toán số tiền 76.680.000 đồng. Xét thấy, nguyên đơn yêu cầu, nhưng không chứng minh được ông L có tham gia giao dịch hụi với nguyên đơn; không chứng minh được ông L là vợ chồng hợp pháp với bà D; không chứng minh được 76.680.000 đồng là số tiền nợ trong giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình của vợ chồng bà D, ông L. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận.

Theo tác giả, trong vụ án này, việc xác định trách nhiệm liên đới phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của Tòa án. Tòa án đã xác định không đúng nghĩa vụ liên đới vì bà D làm chủ hụi nhiều dây hụi trong thời gian dài, ông L sống chung với bà D nên buộc ông L phải biết và ông L cũng không phản đối yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do đó cần buộc ông L và bà D có trách nhiệm liên đới trả nợ cho nguyên đơn.

2.3. Những vướng mắc trong thực tiễn

Mặc dù có cơ sở pháp lý tương đối rõ ràng, việc áp dụng trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự vẫn còn nhiều bất cập, thể hiện qua các khía cạnh sau:

- Khó xác định "nhu cầu thiết yếu của gia đình"

Pháp luật chưa đưa ra khái niệm hoặc tiêu chí cụ thể về “nhu cầu thiết yếu”. Trên thực tế, các Tòa án thường hiểu khác nhau: Có nơi cho rằng chỉ bao gồm chi tiêu sinh hoạt hằng ngày (ăn, ở, học hành, y tế, …); có nơi mở rộng ra cả chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc mua tài sản phục vụ gia đình. Sự không thống nhất này dẫn đến kết quả xét xử khác nhau trong các vụ việc tương tự, gây ảnh hưởng đến tính dự đoán và công bằng của pháp luật.

- Thiếu quy định rõ ràng về đại diện giữa vợ và chồng

Điều 30 LHNGĐ 2014 quy định vợ chồng có thể đại diện cho nhau trong quan hệ dân sự, nhưng không quy định rõ hình thức xác lập sự đại diện (bằng miệng, bằng văn bản…). Do đó, việc một bên tự thực hiện giao dịch dễ bị tranh cãi về việc có được coi là đại diện hợp pháp cho bên kia hay không.

- Khó phân định tài sản chung và tài sản riêng

Trong nhiều vụ án, đương sự không tách bạch được tài sản riêng và tài sản chung, hoặc không chứng minh được mục đích sử dụng của khoản vay. Điều này khiến Tòa án gặp khó khăn trong việc xác định phạm vi nghĩa vụ liên đới, dẫn đến phán quyết dễ bị kháng cáo, kháng nghị.

- Thiếu cơ chế bảo vệ bên thứ ba ngay tình

Trong nhiều giao dịch dân sự, bên thứ ba tin tưởng vào tư cách của người đại diện (vợ hoặc chồng) mà không có cách xác minh về quyền định đoạt tài sản chung. Khi tranh chấp phát sinh, việc tuyên giao dịch vô hiệu hoặc chỉ buộc một bên chịu trách nhiệm gây thiệt hại cho bên thứ ba, ảnh hưởng đến tính an toàn pháp lý của giao dịch dân sự.

Như vậy, có thể thấy, việc áp dụng quy định về trách nhiệm liên đới của vợ chồng trong quan hệ dân sự vẫn thiếu tính thống nhất và còn khoảng trống pháp lý.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, cần bổ sung khái niệm “trách nhiệm liên đới của vợ chồng” tại Điều 3 LHNGĐ 2014. Việc xác định rõ khái niệm này là cơ sở lý luận quan trọng để phân biệt giữa nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ chung về tài sản và nghĩa vụ riêng của mỗi bên vợ, chồng. Chỉ khi làm rõ bản chất của trách nhiệm liên đới, cơ quan áp dụng pháp luật mới có thể xác định đúng chủ thể có nghĩa vụ và phương thức thực hiện nghĩa vụ.

Thứ hai, cần xác định rõ căn cứ phát sinh trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng. Theo quan điểm của tác giả, trách nhiệm liên đới phát sinh khi một bên vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt giao dịch vì lợi ích chung của gia đình. Phạm vi này không nên bị giới hạn ở các giao dịch “nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”, mà cần được mở rộng tới các giao dịch phục vụ nhu cầu và lợi ích chung trong thực tiễn đời sống, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh.

Ví dụ, trong trường hợp một bên vợ (hoặc chồng) vay tiền để thanh toán các khoản nợ nhằm duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh của gia đình mà không có sự thỏa thuận của bên kia, thì nghĩa vụ trả nợ vẫn cần được xác định là nghĩa vụ liên đới của cả hai vợ chồng, bởi giao dịch đó phục vụ lợi ích chung. Như vậy, căn cứ xác định trách nhiệm liên đới gồm: (1) giao dịch được xác lập hợp pháp; và (2) mục đích của giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của gia đình.

Thứ ba, bổ sung quy định về nghĩa vụ chứng minh. Người yêu cầu trách nhiệm liên đới của vợ chồng cần chứng minh giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu (hoặc chứng minh người còn lại biết giao dịch nhưng không phản đối); bên không đồng ý trách nhiệm liên đới cần chứng minh giao dịch không phục vụ lợi ích chung (hoặc chứng minh vợ chồng đã có văn bản thỏa thuận hợp pháp về giao dịch riêng và không chịu trách nhiệm liên đới khi phát sinh nghĩa vụ).

Kết luận

Trách nhiệm liên đới của vợ chồng là chế định quan trọng bảo vệ quyền lợi của bên thứ ba nhưng cần áp dụng thận trọng để tránh phát sinh trách nhiệm bất công. Hoàn thiện pháp luật và hướng dẫn áp dụng thống nhất sẽ góp phần bảo đảm tính công bằng, minh bạch trong xét xử.

NGUYỄN ÁNH HỒNG (Tòa án nhân dân khu vực 4 - Cà Mau)

TAND TP. Cần Thơ xét xử vụ án dân sự  “Tranh chấp ly hôn, nuôi con và chia tài sản chung”- Ảnh: Hầu Thị Bích Thủy.