Xác định cha, mẹ cho con - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, quyền được biết về cha mẹ ruột là một trong những quyền nhân thân cơ bản của cá nhân, gắn liền với sự tồn tại, phát triển và nhân phẩm của mỗi con người. Việc xác định cha, mẹ cho con không chỉ liên quan đến quan hệ huyết thống mà còn kéo theo nhiều hệ quả pháp lý khác như quyền và nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, thừa kế, hộ tịch, quốc tịch.
1. Quy định của pháp luật hiện hành
Thực tiễn tố tụng những năm gần đây cho thấy, số lượng các vụ án xác định cha, mẹ cho con ngày càng tăng. Sự phát triển của công nghệ giám định ADN giúp quá trình chứng minh huyết thống có cơ sở khoa học chắc chắn hơn, song pháp luật vẫn còn nhiều khoảng trống và bất cập. Không ít vụ án bị kéo dài do khó khăn về thủ tục, về việc thu thập chứng cứ, về mối quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan hộ tịch, hay do sự can thiệp của yếu tố nước ngoài. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu một cách hệ thống quy định pháp luật hiện hành, chỉ ra vướng mắc và kiến nghị giải pháp hoàn thiện là cần thiết nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người và hiệu quả hoạt động của Tòa án.
Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định quyền nhân thân gắn liền với cá nhân, trong đó có quyền xác định cha, mẹ cho con và quyền nhận cha, mẹ, con.
Cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “1. Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và quan hệ giữa các thành viên gia đình”.
Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ) năm 2014 cụ thể hóa các nguyên tắc về hôn nhân, gia đình và quy định rõ về việc xác định cha, mẹ cho con, thẩm quyền, điều kiện và hệ quả pháp lý. Theo đó tại Điều 88, 89 Luật này quy định:
1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
1. Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình.
2. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình”.
Đồng thời, Luật HNGĐ cũng quy định về thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con và người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con như sau:
“Điều 101. Thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con
1. Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp.
2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của Luật này.
Quyết định của Tòa án về xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch; các bên trong quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 102. Người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con
1. Cha, mẹ, con đã thành niên không bị mất năng lực hành vi dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đăng ký hộ tịch xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật này.
2. Cha, mẹ, con, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định con, cha, mẹ cho mình trong trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này.
3. Cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự; xác định con cho cha, mẹ chưa thành niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự trong các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 101 của Luật này:
a) Cha, mẹ, con, người giám hộ;
b) Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình;
c) Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em;
d) Hội liên hiệp phụ nữ”.
Đồng thời, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định về trình tự khởi kiện, thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử các vụ việc dân sự liên quan đến yêu cầu xác định cha, mẹ cho con. Bên cạnh đó, Luật Hộ tịch năm 2014 cùng các nghị định hướng dẫn điều chỉnh thủ tục đăng ký khai sinh, thay đổi, cải chính hộ tịch khi có bản án, quyết định của Tòa án.
Tuy nhiên, việc áp dụng đồng thời nhiều đạo luật, nghị định, thông tư và án lệ trong thực tiễn đôi khi gây ra mâu thuẫn, chồng chéo. Chẳng hạn, việc xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp hôn nhân thực tế trước ngày Luật HNGĐ năm 1986 có hiệu lực vẫn chưa có hướng dẫn thống nhất. Ngoài ra, pháp luật chưa dự liệu đầy đủ các trường hợp đặc biệt như thụ tinh nhân tạo, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng nảy sinh tranh chấp về quyền xác định cha, mẹ.
2. Thực trạng áp dụng pháp luật
Thực tế tại nhiều địa phương cho thấy, tranh chấp xác định cha, mẹ cho con diễn ra phổ biến nhất trong các tình huống: người mẹ đơn thân khởi kiện yêu cầu xác định cha cho con nhằm buộc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng; người cha muốn nhận con sau khi mối quan hệ tình cảm đã chấm dứt; hoặc con đã trưởng thành yêu cầu xác định cha để hưởng thừa kế…. Không ít vụ việc phát sinh từ mối quan hệ phức tạp như hôn nhân thực tế, con sinh ra từ quan hệ ngoài hôn nhân, hoặc có yếu tố nước ngoài, phần lớn liên quan đến việc người cha hoặc người mẹ phủ nhận trách nhiệm nuôi dưỡng.
Một điểm sáng trong thực tiễn là vai trò của giám định ADN. Hầu hết các vụ án đều được giải quyết dựa trên kết quả giám định, bảo đảm tính khách quan, khoa học. Tuy nhiên, vẫn có những trường hợp đương sự từ chối giám định, hoặc tìm cách trì hoãn nhằm kéo dài vụ việc. Có trường hợp người bị yêu cầu xác định cha, mẹ đã bỏ đi nơi khác, gây khó khăn trong việc lấy mẫu giám định. Tòa án buộc phải áp dụng quy định tại Điều 92 BLTTDS về chứng cứ mặc nhiên thừa nhận nếu một bên không phản đối hợp lý, song thực tiễn cho thấy việc này còn nhiều tranh cãi.
Khó khăn khác xuất hiện khi vụ án có yếu tố nước ngoài. Nhiều trường hợp con sinh ra do hôn nhân giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài, khi hôn nhân tan vỡ thì tranh chấp xác định cha, mẹ nảy sinh. Việc tống đạt, ủy thác tư pháp, thu thập chứng cứ ở nước ngoài rất phức tạp và kéo dài, làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của trẻ em. Bên cạnh đó, việc thi hành bản án sau khi xác định cha, mẹ cho con trong trường hợp này cũng gặp nhiều trở ngại, đặc biệt khi liên quan đến việc cấp dưỡng hoặc thừa kế.
Một vấn đề khác là sự phối hợp giữa Tòa án và cơ quan hộ tịch. Sau khi bản án có hiệu lực, việc ghi chú vào sổ hộ tịch, thay đổi khai sinh cho con đôi khi bị chậm trễ, nhất là tại cấp xã. Thậm chí, có địa phương còn yêu cầu thêm thủ tục ngoài luật định, gây phiền hà cho người dân. Điều này làm giảm hiệu lực của bản án và kéo dài tình trạng pháp lý không rõ ràng của trẻ em.
3. Những vướng mắc và bất cập
Thứ nhất, một trong những vướng mắc lớn nhất là thủ tục khởi kiện. Theo quy định, người có quyền khởi kiện gồm con, cha, mẹ, người giám hộ hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tế nhiều trẻ em chưa đủ năng lực hành vi nên phải thông qua người đại diện, nhưng người đại diện lại chính là người bị kiện, ví dụ mẹ khởi kiện xác định cha, hoặc ngược lại. Trong trường hợp này, việc xác định người đại diện hợp pháp và bảo đảm quyền lợi của trẻ em chưa có hướng dẫn rõ ràng.
Thứ hai, vấn đề chứng cứ cũng còn bất cập. Dù giám định ADN được coi là chứng cứ khoa học thuyết phục nhất, nhưng pháp luật chưa có cơ chế cưỡng chế buộc một bên phải tham gia giám định. Nếu bị đơn kiên quyết từ chối, Tòa án gặp khó trong việc giải quyết. Một số bản án đã vận dụng nguyên tắc suy đoán bất lợi, coi sự từ chối giám định là hành vi cản trở tố tụng và chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên, cách áp dụng này chưa thực sự thống nhất, dễ dẫn đến khiếu nại, kháng nghị.
Thứ ba, xung đột giữa quyền nhân thân và quyền bí mật đời tư cũng là điểm đáng chú ý. Khi xác định cha, mẹ cho con, Tòa án thường phải xem xét, công khai nhiều thông tin nhạy cảm về đời sống cá nhân, tình dục, hôn nhân ngoài giá thú. Điều này có thể ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm của các đương sự. Trong khi đó, pháp luật chưa có cơ chế bảo vệ hiệu quả, ví dụ như xét xử kín bắt buộc hoặc biện pháp bảo mật thông tin trong hồ sơ vụ án.
Thứ tư, pháp luật hiện hành chưa theo kịp sự phát triển của y học và công nghệ sinh sản. Trường hợp thụ tinh nhân tạo bằng tinh trùng hiến tặng, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, hay lưu giữ mẫu ADN cho nghiên cứu y khoa đặt ra nhiều tình huống mới mà luật chưa có quy định rõ ràng. Khi tranh chấp xảy ra, Tòa án phải lúng túng trong việc áp dụng pháp luật, đôi khi phải vận dụng tương tự pháp luật hoặc dựa vào tập quán, nguyên tắc chung.
4. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện
Để khắc phục những bất cập trên, cần tiếp cận giải pháp ở cả phương diện lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Một là, về phương diện lập pháp, nên nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật HNGĐ theo hướng quy định chi tiết, đầy đủ hơn về quyền xác định cha, mẹ cho con trong các tình huống đặc biệt. Quy định cần bao quát cả trường hợp thụ tinh nhân tạo, mang thai hộ, hoặc trẻ sinh ra từ công nghệ mới. Đồng thời, cần có cơ chế rõ ràng về việc giám định ADN, trong đó quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, cũng như hậu quả pháp lý khi một bên từ chối giám định.
Hai là, về phương diện tố tụng, BLTTDS nên bổ sung quy định cho phép Tòa án có thể ra quyết định buộc giám định trong trường hợp cần thiết, đồng thời bảo đảm quyền phản biện và giám sát của các bên. Đây là giải pháp cân bằng giữa quyền tự do cá nhân và yêu cầu bảo vệ lợi ích của trẻ em. Ngoài ra, cần quy định chặt chẽ hơn về thủ tục đại diện cho trẻ em trong những vụ án mà cha hoặc mẹ là bị đơn, nhằm tránh xung đột lợi ích và bảo đảm tính khách quan.
Bà là, về phương diện thực tiễn, Tòa án cần tăng cường phối hợp với cơ quan hộ tịch. Ngay sau khi bản án có hiệu lực, cơ quan hộ tịch phải chủ động thực hiện ghi chú, điều chỉnh khai sinh cho con trong thời hạn cụ thể, không để kéo dài. Đồng thời, nên có cơ chế giám sát việc thực hiện này nhằm tránh tình trạng chậm trễ hoặc yêu cầu thủ tục ngoài luật định.
Bốn là, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cần cải thiện cơ chế ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế trong việc xác định cha, mẹ cho con có yếu tố nước ngoài. Việt Nam có thể nghiên cứu tham gia một số điều ước quốc tế liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em, công nhận và thi hành bản án về nhân thân. Điều này vừa tạo thuận lợi trong tố tụng, vừa bảo đảm quyền lợi của trẻ em sinh ra từ các cuộc hôn nhân xuyên quốc gia.
Năm là, để bảo vệ đời tư của đương sự, cần bổ sung quy định bắt buộc xét xử kín đối với các vụ án xác định cha, mẹ cho con, trừ trường hợp các bên đồng ý xét xử công khai. Hồ sơ vụ án cũng phải được quản lý chặt chẽ, tránh việc rò rỉ thông tin ra ngoài. Đồng thời, cần quy định rõ chế tài xử lý hành vi tiết lộ thông tin riêng tư liên quan đến quá trình xét xử.
Kết luận
Xác định cha, mẹ cho con là lĩnh vực pháp luật gắn bó mật thiết với quyền con người, đặc biệt là quyền trẻ em. Mặc dù hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc bảo vệ quyền này, song thực tiễn vẫn tồn tại nhiều vướng mắc từ quy định đến áp dụng. Các bất cập về thủ tục khởi kiện, về chứng cứ giám định ADN, về xung đột quyền lợi, về tình huống đặc biệt do công nghệ sinh sản đặt ra cho thấy nhu cầu cấp bách phải hoàn thiện pháp luật.
Giải pháp cần được triển khai đồng bộ, từ sửa đổi luật, bổ sung cơ chế tố tụng, cải thiện phối hợp liên ngành, đến tăng cường hợp tác quốc tế. Quan trọng nhất là phải đặt quyền lợi của trẻ em vào vị trí trung tâm, coi đây là nguyên tắc tối cao trong mọi quyết định pháp lý liên quan đến việc xác định cha, mẹ cho con. Chỉ khi đó, pháp luật mới thực sự trở thành công cụ hữu hiệu bảo vệ nhân phẩm, sự phát triển toàn diện và lợi ích lâu dài của mỗi con người.
Ảnh minh họa - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Nghị quyết 254/2025/QH15 tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thi hành Luật Đất đai
-
Danh sách địa điểm đặt trụ sở chính của 34 Tòa án nhân dân cấp tỉnh và 355 Tòa án nhân dân khu vực
-
Một số hạn chế, vướng mắc trong quy định về xóa án tích và kiến nghị hoàn thiện
-
Bàn về quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
Bình luận