Xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của quyền tác giả - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện
Bài viết nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành liên quan đến việc xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của quyền tác giả. Trên cơ sở phân tích khung pháp lý, các nguyên tắc phân chia tài sản và các bài học từ nước ngoài, nghiên cứu làm rõ những vấn đề liên quan đến xác định loại tài sản nêu trên là tài sản chung hay tài sản riêng và đặt ra các cơ chế phân chia phù hợp nếu vợ chồng ly hôn, từ đó đề xuất kiến nghị hoàn thiện với hệ thống pháp luật hiện hành.
Đặt vấn đề
Quyền tác giả (QTG), với tư cách là một trong các trụ cột của quyền sở hữu trí tuệ, thường mang lại giá trị kinh tế lớn cho các đối tượng sở hữu quyền này. Bằng cách khai thác các quyền tài sản phát sinh, tác phẩm cho phép tác giả đồng thời là chủ sở hữu là một bên trong quan hệ hôn nhân đạt được lượng lớn lợi tức phát sinh. Trên thực tế, việc xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của QTG còn tồn tại nhiều hạn chế, đặc biệt liên quan đến vấn đề bảo đảm sự công bằng cho hai bên liên quan trong việc phân định tài sản chung, tài sản riêng. Bên cạnh đó, pháp luật hiện tại chưa quy định chi tiết phương pháp phân chia tài sản chung là lợi tức phát sinh trong trường hợp hai bên chấm dứt hôn nhân. Bài viết này phân tích một số bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, đối với chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
1. Cơ sở lý luận về xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của quyền tác giả
Theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) 2005 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2022), tác giả được định nghĩa “là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”[1]. Cụm từ “tác phẩm” ở đây được hiểu là “sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”[2]. QTG bao gồm những quyền về nhân thân và quyền về tài sản - những quyền mang bản chất dân sự, được phát sinh từ thời điểm tác phẩm được tạo lập. Quyền nhân thân bảo vệ mối liên hệ tinh thần giữa tác phẩm và tác giả, là quyền dân sự gắn với tác giả và không thể chuyển giao, trừ quyền đặt tên và quyền công bố tác phẩm. Trong khi ấy, quyền tài sản cho phép tác giả khai thác tác phẩm dưới các hình thức do luật định, nhằm thu về lợi tức bù đắp cho công sức của mình. QTG phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký[3].
Xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của QTG là quá trình phân định rõ ràng các quyền và lợi ích phát sinh từ QTG, bao gồm quyền nhân thân, quyền tài sản và lợi tức phát sinh thuộc về tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng. Việc phân định này cần được cân nhắc dựa vào các thời điểm hình thành QTG, bao gồm: (i) Trước khi kết hôn; (ii) Trong thời kỳ hôn nhân; (iii) Khi hôn nhân chấm dứt.
2. Quy định của pháp luật Việt Nam về xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của quyền tác giả
Tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân dưới chế độ tài sản theo luật định hiện nay bao gồm hai loại, tài sản chung và tài sản riêng. Tài sản chung của vợ chồng bao gồm: (i) tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân; (ii) tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc tặng cho chung; (iii) tài sản đang có tranh chấp mà không có căn cứ chứng minh là tài sản riêng; (iv) tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc “sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia”[4] và “vợ chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung”[5]. Đối với tài sản riêng, đây là loại tài sản thuộc sở hữu của một bên vợ/chồng và chỉ người đó mới “có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt” đối với loại tài sản này”[6]. Tài sản riêng bao gồm: (i) tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; (ii) tài sản được thừa kế, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; (iii) tài sản được chia riêng cho vợ, chồng sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân; (iv) hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng có được sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ; (v) tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng; (vi) tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
Tại Điều 12a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022, các nhà làm luật đã quy định: “Tác giả là người trực tiếp sáng tạo tác phẩm”. Trong trường hợp có từ hai người trở lên cùng trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm thì họ sẽ là đồng tác giả nếu họ có chủ ý đóng góp để kết hợp thành một tổng thể hoàn chỉnh. Đồng thời, các nhà làm luật nhấn mạnh “Người hỗ trợ, góp ý kiến hoặc cung cấp tư liệu cho người khác sáng tạo tác phẩm không phải là tác giả, đồng tác giả”[7].
Tại khoản 1 Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định: “Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ” là tài sản riêng của vợ chồng. Tuy nhiên, theo tinh thần của khoản 2 Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Có thể thấy, nếu tác phẩm được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, quyền tài sản đối với tác phẩm ấy sẽ được quy định là tài sản riêng của một bên vợ/chồng trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm ấy, và sẽ độc quyền thực hiện hoặc cho phép tổ chức, cá nhân khác thực hiện việc khai thác quyền tài sản của tác phẩm. Lợi tức thu được từ việc khai thác này sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
Như vậy, trong mọi trường hợp, nếu chỉ một trong hai bên vợ/chồng là người trực tiếp sáng tạo nên tác phẩm, quyền nhân thân luôn là quyền riêng của người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm đó. Đồng thời, quyền tài sản phát sinh từ việc khai thác tác phẩm cũng là tài sản riêng.
Trường hợp hai bên vợ chồng quyết định chấm dứt hôn nhân, lợi tức phát sinh từ việc khai thác quyền tài sản với tư cách là tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi, dựa vào vào quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, bao gồm: (i) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng; (ii) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung; (iii) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; (iv) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng. Các quy định này đặt nền tảng cho việc chia tài sản một cách linh hoạt, phản ánh nguyên tắc bình đẳng có điều kiện, tức là sự bình đẳng không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc vào bối cảnh và đóng góp thực tế của từng bên[8].
Khoản 4 Điều 7 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình giải thích chi tiết các yếu tố trên, trong đó nổi bật là vấn đề “công sức đóng góp của vợ, chồng” và “lỗi của mỗi bên”. Trước hết, điểm b khoản 4 Điều 7 Thông tư này khẳng định “người vợ hoặc chồng ở nhà chăm sóc con, gia đình mà không đi làm được tính là lao động có thu nhập tương đương với thu nhập của chồng hoặc vợ đi làm”. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật Việt Nam ghi nhận dù một bên vợ/chồng không trực tiếp tạo nên tài sản chung, họ vẫn được xem là đã có đóng góp vào việc tạo lập, duy trì, phát triển nên khối tài sản đó. Tiếp theo, yếu tố lỗi được định nghĩa là “lỗi của vợ hoặc chồng vi phạm quyền, nghĩa vụ về nhân thân, tài sản của vợ chồng dẫn đến ly hôn”. Đây là một yếu tố quan trọng, cần xem xét nguyên nhân dẫn đến ly hôn có phải xuất phát từ yếu tố lỗi (như hành vi bạo lực gia đình, không chung thuỷ hoặc phá tán tài sản) của một bên vợ/chồng hay không, từ đó đưa ra quyết định nhằm đảm bảo công bằng giữa hai bên trong quan hệ vợ chồng.
3. Một số bất cập, hạn chế từ thực tiễn xác định tài sản của vợ chồng là đối tượng của quyền tác giả
Thứ nhất, việc cùng lúc quy định quyền nhân thân và quyền tài sản xuất phát từ QTG đều là tài sản riêng của một bên vợ/chồng theo nhóm tác giả là chưa hợp lý. Dưới góc độ hôn nhân và gia đình, cuộc hôn nhân được hình thành cần phải có sự đồng ý của hai bên vợ chồng. Hai bên thường có mối quan hệ gần gũi, gắn bó, sẵn sàng tạo điều kiện tốt nhất để đối phương thực hiện công việc của mình. Vì vậy trong thời kỳ hôn nhân, một bên vợ/chồng tuy không trực tiếp đóng góp vào việc hình thành tác phẩm, cũng được xem là đã góp công trong việc tạo lập tác phẩm ấy. Họ tuy không thể có tư cách quyền nhân thân phát sinh từ tác phẩm, nhưng xứng đáng được hưởng chung quyền tài sản cùng với chủ thể trực tiếp sáng tạo tác phẩm nếu tác phẩm được hình thành trong thời kỳ nhân. Điều này phù hợp với yêu cầu xem xét việc người vợ/chồng dù chỉ chăm sóc gia đình, con cái vẫn được xem là có đóng góp trong việc tạo lập tài sản tại khoản 4 Điều 7 Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP.
Thứ hai, đối với vấn đề phân chia lợi tức phát sinh từ việc khai quyền tài sản cuả tác phẩm, cần xem xét cụ thể các yếu tố liên quan đến việc chia tài sản chung, trong trường hợp chấm dứt hôn nhân. Hiện nay, yếu tố “công sức đóng góp của chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung” và “lỗi của mỗi bên trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của vợ chồng” được quy định tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 vẫn còn mơ hồ và chưa được chi tiết. Pháp luật hiện tại chưa quy định cơ chế lượng hóa công sức đóng góp này một cách tương đối, đồng thời chưa phân định rõ các loại lỗi nào sẽ ảnh hưởng lớn hơn đến quá trình phân chia tài sản. Hệ quả, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền có thể chênh lệch, phụ thuộc vào nhận thức và lập luận của từng người tiến hành tố tụng. Điều này có thể dẫn đến việc không thống nhất trong phán quyết của các Thẩm phán, dẫn đến khó khăn trong việc phân chia tài sản một cách thuyết phục, công bằng.
Thứ ba, vấn đề phân chia lợi tức phát sinh từ việc khai thác quyền tài sản tác phẩm sẽ trở nên đơn giản hơn nếu cả hai bên vợ chồng cùng đạt được thỏa thuận về việc phân chia nguồn tức ấy tại giai đoạn hoà giải, trước khi giải quyết tại Toà án. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật Việt Nam không bắt buộc các bên tranh chấp phải tham gia hoà giải. Tại một số quốc gia như Đức, Pháp, mô hình trung gian hoặc Thẩm phán hòa giải nhằm khuyến khích các bên đạt được thỏa thuận về tài sản đã được hình thành[9], góp phần giảm gánh nặng cho các Thẩm phán khi tham gia vào quá trình chia tài sản, đồng thời giúp đạt được sự công bằng tối đa cho quyền lợi của hai bên.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, pháp luật cần quy định chi tiết hơn việc phân định tài sản chung và tài sản riêng đối với quyền tài sản và lợi tức phát sinh từ việc khai thác tác phẩm[10]. Việc xác định cần dựa trên thời điểm tạo lập tác phẩm và thời điểm khai thác quyền tài sản của tác phẩm, nhằm bảo đảm công bằng cho cả hai bên vợ chồng, thay vì gói gọn “quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ” là tài sản riêng tại Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP. Cụ thể:
Một là, nếu tác phẩm được tạo lập trước thời kỳ hôn nhân, nhưng lợi tức phát sinh từ việc khai thác quyền tài sản của tác phẩm hình thành trong thời kỳ hôn nhân, thì quyền tài sản vẫn là tài sản riêng, còn lợi tức phát sinh từ việc khai thác quyền tài sản trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung, bởi một bên vợ/chồng còn lại không đóng góp công sức về việc tạo lập nên tác phẩm.
Hai là, nếu tác phẩm được tạo ra và khai thác trong thời kỳ hôn nhân, thì quyền tài sản và lợi tức phát sinh từ tác phẩm đều là tài sản chung của vợ chồng, không phụ thuộc vào việc ai trực tiếp sáng tạo, vì cả hai đều đã có đóng góp trong đời sống hôn nhân nhằm tạo điều kiện cho việc hình thành tác phẩm.
Ba là, nếu tác phẩm được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng lợi tức phát sinh sau khi hôn nhân chấm dứt, thì cần phải xem xét phân chia lợi tức, bởi cả hai bên vợ/chồng đều đã có đóng góp trong đời sống hôn nhân. Quy định này giúp một bên vợ/chồng còn lại không bị thiệt thòi về mặt quyền lợi khi đã có đóng góp nhất định vào việc hình thành tác phẩm.
Thứ hai, các tranh chấp liên quan đến lợi tức phát sinh từ việc khai thác tác phẩm phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Cần bổ sung các quy định chi tiết hơn liên quan đến cơ chế phân chia nhằm đạt được sự công bằng cho cả hai bên trong trường hợp chấm dứt hôn nhân, bao gồm hai yếu tố “công sức đóng góp” và “lỗi của mỗi bên” được nêu tại khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể:
Một là, đối với việc đánh giá công sức đóng góp: Cần quy định rõ trên các thang đo nào (thời gian, hình thức, công sức đóng góp) thì tài sản phát sinh từ quyền sở hữu trí tuệ sẽ được chia theo tỷ lệ phù hợp nhằm bảo đảm quyền lợi cao nhất cho cả hai bên, chẳng hạn tài sản có giá trị càng cao thì trách nhiệm, công sức của người quản lý, giữ gìn, chăm sóc tài sản đó càng lớn[11]. Việc ban hành văn bản hướng dẫn chi tiết sẽ thống nhất các quyết định của Tòa án trong việc đánh giá công sức đóng góp của mỗi bên, đồng thời bảo đảm quyền lợi của bên yếu thế hơn (thường là bên nội trợ, chăm sóc gia đình) trong quan hệ hôn nhân.
Hai là, đối với yếu tố lỗi: Cần làm rõ tiêu chí áp dụng yếu tố lỗi trong chia tài sản. Pháp luật hiện hành tuy có quy định cho phép tính đến lỗi của một bên trong quan hệ hôn nhân, song chưa có tiêu chí để đánh giá mức độ nghiêm trọng của yếu tố lỗi và mức độ ảnh hưởng của yếu tố này trong việc phân chia tỷ lệ tài sản. Việt Nam có thể cân nhắc đánh giá lỗi trong trường hợp lỗi của một bên vợ/chồng gây thiệt hại vật chất nhất cụ thể cho đối phương, hoặc tác động to lớn đến tinh thần dẫn đến chấm dứt hôn nhân. Điều này tạo nên sự minh bạch, tránh tình trạng đánh giá theo hướng cảm tính.
Thứ ba, cần phát triển cơ chế hòa giải tiền tố tụng đối với tranh chấp về lợi tức thu được từ việc khai thác tác phẩm trong thời kỳ hôn nhân. Việc đạt được thỏa thuận sớm giữa hai bên giúp hạn chế tranh chấp kéo dài, đồng thời giảm tính đối kháng tại tòa và bảo đảm tốt hơn quyền lợi của mỗi bên trong bối cảnh mỗi bên vợ/chồng đều hiểu rõ các cuộc sống hôn nhân, quyền và nghĩa vụ của họ trong thời kỳ ấy.
Kết luận
Sự phát triển của kinh tế sáng tạo khiến các quyền phát sinh từ QTG ngày càng trở nên quan trọng, đóng góp một phần to lớn vào việc tạo lập nguồn thu nhập chung của gia đình. Do đó việc phân định rõ tài sản chung, tài sản riêng và cơ chế phân chia lợi tức là cần thiết để bảo đảm công bằng cho các bên trong quan hệ hôn nhân. Đồng thời, việc hoàn thiện khung pháp lý về QTG trong hôn nhân còn góp phần xây dựng môi trường pháp lý ổn định, phù hợp với yêu cầu phát triển hiện nay. Bài viết dựa trên các căn cứ pháp lý hiện hành, đã làm rõ vai trò và tầm quan trọng của QTG trong quan hệ hôn nhân, đồng thời chỉ ra những hạn chế còn tồn tại trong các quy định của hệ thống pháp luật, từ đó đã nêu ra những kiến nghị với mục đích hoàn thiện pháp luật.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2019, 2022).
2. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
3. Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình.
4. Thông tư số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
5. Lê Hồng Hiển, Xác định, phân chia tài sản khi ly hôn: Một số bất cập và kiến nghị, https://lsvn.vn/xac-dinh-phan-chia-tai-san-khi-ly-hon-mot-so-bat-cap-va-kien-nghi-a92860.html.
6. Nguyễn Thị Hương, Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn - thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật, https://danchuphapluat.vn/chia-tai-san-chung-cua-vo-chong-khi-ly-hon-thuc-trang-va-kien-nghi-hoan-thien-phap-luat-7479-7479.html&link=autochanger .
7. Jamadi, Eman Suparman & Anis Mashdurohatun, Legal Reconstruction of Intellectual Property Rights as Joint Property in Marriage Based on Justice Value, Scholars International Journal of Law, Crime and Justice, Scholars Middle East Publishers, Dubai, United Arab Emirates, 22/11/2022.
[1] Khoản 2 Điều 4 Luật SHTT 2005.
[2] Khoản 7 Điều 4 Luật SHTT 2005.
[3] Khoản 1 Điều 6 Luật SHTT năm 2005.
[4] Khoản 1 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[5] Khoản 2 Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[6] Khoản 1 Điều 206 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[7] Khoản 2 Điều 12a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2022.
[8] Nguyễn Thị Hương, Chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, https://danchuphapluat.vn/chia-tai-san-chung-cua-vo-chong-khi-ly-hon-thuc-trang-va-kien-nghi-hoan-thien-phap-luat-7479-7479.html&link=autochanger, truy cập ngày 14/11/2025.
[9] Nguyễn Thị Hương, Tlđd(8).
[10] Eman Suparman, Legal Reconstruction of Intellectual Property Rights as Joint Property in Marriage Based on Justice Value, Scholars International Journal of Law, Crime and Justice, 2022, https://www.academia.edu/108479665/Legal_Reconstruction_of_Intellectual_Property_Rights_as_Joint_Property_in_Marriage_Based_on_Justice_Value, truy cập ngày 14/11/2025.
[11] Lê Hồng Hiển, Xác định, phân chia tài sản khi ly hôn: Một số bất cập và kiến nghị, https://lsvn.vn/xac-dinh-phan-chia-tai-san-khi-ly-hon-mot-so-bat-cap-va-kien-nghi-a92860.html, truy cập ngày 14/11/2025.
TANDCC tại Đà Nẵng xét xử vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn - Ảnh: Nguyên Anh.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Nhiều tập thể, cá nhân đã được tặng các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cao tại Hội nghị triển khai công tác Tòa án năm 2026
-
Tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Ngành Tòa án nhân dân luôn coi tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách” là giá trị cốt lõi gắn liền với đạo đức của người cán bộ Tòa án
-
Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai: Tuyên án tử hình người phụ nữ 4 lần sử dụng chất độc Xyanua đầu độc người thân
Thẩm phán Đinh Thị Kiều Lương Chủ tọa phiên tòa vụ án Nguyễn Thị Hồng Bích “Giết người” và “Tàng trữ, sử dụng trái phép chất độc”. -
Di chúc ghi âm, ghi hình trong Bộ luật Dân sự Trung Quốc - kinh nghiệm cho Việt Nam
Bình luận