KỸ NĂNG ĐIỀU HÀNH TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ CỦA THẨM PHÁN (Kỳ I)
I.Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của Thẩm phán
1.Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm
1.1. Phiên tòa sơ thẩm về hình sự
Trong hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng hình sự nói riêng, Tòa án giữ vai trò là trung tâm. Có thể nói, hoạt động xét xử tại phiên tòa được xem là hoạt động quan trọng nhất. Thông qua phiên tòa, các chức năng cơ bản của tố tụng được bảo đảm thực hiện một cách rõ nét, công khai, dân chủ và bình đẳng. Hoạt động xét xử cũng chính là việc kiểm tra công khai tính đúng đắn của các hoạt động tố tụng trước đó của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, mà ở đó mọi tài liệu chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong quá trình điều tra đều được xem xét một cách công khai tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ không có điều kiện thực hiện.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm kỹ năng điều khiển phần tranh tụng là hết sức quan trọng đòi hỏi Hội đồng xét xử mà ở đây là vai trò của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phải tập trung trí tuệ, xử lý các tình huống một cách mau lẹ, các lý lẽ đưa ra không chỉ đòi hỏi sự chính xác mà phải có sức thuyết phục, nhưng đồng thời lại phải tuân theo những quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm, đặc điểm kỹ năng điều hành tranh tụng của Thẩm phán
Điều 26 Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm của Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015 đã quy định :
“Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
Từ nguyên tắc trên theo chúng tôi, có thể hiểu tranh tụng trong tố tụng hình sự “là sự tranh luận giữa các bên một cách bình đẳng (bên buộc tội và bên gỡ tội) dựa trên những tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án, nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án tại phiên tòa xét xử, đồng thời làm cơ sở cho việc ra Bản án, quyết định của Tòa án”.
Vậy tranh tụng trong tố tụng hình sự được bắt đầu từ giai đoạn nào của hoạt động tố tụng? Về vấn đề này cũng có những quan điểm khác nhau đó là:
Có quan điểm cho rằng, quá trình tranh tụng bắt đầu không chỉ từ giai đoạn khởi tố vụ án mà cả các giai đoạn trước khởi tố và quá trình này sẽ kết thúc khi vụ án được xét xử xong (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm), thậm chí quá trình này lại còn được tiếp tục trong một số trường hợp khi bản án bị Tòa án cấp trên hủy để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử lại. Những người đồng tình với ý kiến này cho rằng: “Tranh tụng là một quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án đồng thời cũng là phương tiện để đạt được mục đích và nhiệm vụ đặt ra của TTHS” và chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng bao gồm tất cả những chủ thể tham gia vào quá trình TTHS. Cụ thể là: CQĐT- ĐTV; VKS- KSV; người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người bào chữa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.
Chúng tôi không đồng tình với quan điểm trên bởi lẽ, trong giai đoạn khởi tố, điều tra là giai đoạn mà ở đó Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng, tiến hành thu thập các tài liệu, chứng cứ nhằm chứng minh tội phạm và người bào chữa nếu có trong giai đoạn này cũng sẽ chỉ thực hiện nhiệm vụ thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo vệ cho thân chủ của mình mà thôi, chứ không thể gọi là tranh tụng vì giai đoạn này nếu gọi là tranh tụng thì không lẽ chỉ có chủ thể của hai bên buộc tội và bào chữa tham gia, các chức năng buộc tội và bào chữa mới chỉ được hai bên thực hiện một cách đơn phương theo ý chí chủ quan của mình là phiến diện, không chính thức và đương nhiên bên nào cũng bảo vệ ý kiến của mình, thậm chí còn không bộc lộ hết những sự thật của các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và đặc biệt giai đoạn này còn thiếu một chủ thể hết sức quan trọng giữ vai trò quyết định đó là Tòa án với chức năng xét xử. Theo quy định tại Điều 26 BLTTHS 2015 thì có thể khẳng định: Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, điều đó hoàn toàn phù hợp với phân tích chúng tôi đã nêu ở trên. Quá trình tranh tụng chỉ thực sự được tiến hành khi có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bên bào chữa dưới sự kiểm tra, giám sát của Tòa án… Chính vì vậy mà quá trình này chỉ có thể được bắt đầu từ giai đoạn xét xử, đặc biệt là xét xử sơ thẩm tại phiên tòa. Tại phiên tòa xét xử, với sự có mặt đầy đủ các chủ thể đó là bị cáo và người bào chữa; kiểm sát viên – đại diện cho VKS và người bị hại ( trong trường hợp khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại ), quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử với ba chức năng tương ứng xem xét việc buộc tội, bào chữa và xét xử Hội đồng xét xử chỉ có thể ra Bản án, quyết định sau khi đã căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm, quá trình tranh tụng vẫn còn tồn tại song bị hạn chế hơn cả về nội dung, chủ thể tham gia và các chức năng được thực hiện. Tuy nhiên, phạm vi tranh tụng bị giới hạn bởi nội dung kháng cáo, kháng nghị. Do đó, các chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử cũng không được thực hiện đầy đủ như ở phiên tòa sơ thẩm.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh tụng chỉ tồn tại ở giai đoạn mà ở đó có sự hiện diện đầy đủ các bên buộc tội, bào chữa và xét xử… Đặc điểm và nội dung của tranh tụng mà người Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cần phải hiểu và hướng đến khi điều hành phần tranh tụng là:
– Tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hình sự, do vậy hoạt động tranh tụng bắt buộc phải tuân theo các qui định của Bộ luật TTHS. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử, có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các qui định của pháp luật theo qui định của BLTTHS để các bên tham gia tranh tụng.
– Chủ thể của tranh tụng gồm có Kiểm sát viên (chủ thể buộc tội) và người tham gia tố tụng khác như Luật sư, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại… (cũng có thể là chủ thể buộc tội hoặc gỡ tội). Các chủ thể này, tuy xuất phát từ những địa vị pháp lý khác nhau nhưng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì họ bình đẳng với nhau trong quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, yêu cầu, quan điểm về giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có trách nhiệm tranh tụng với người bào chữa, với bị cáo, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác để làm rõ sự thật khách quan của đối tượng tranh tụng trên cơ sở đối đáp lại toàn bộ các quan điểm của chủ thể gỡ tội với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và qui định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử…
– Hoạt động tranh tụng tại phiên toà diễn ra dưới sự điều khiển của chủ toạ phiên tòa. Để làm tốt vấn đề này, phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử. Chủ tọa phiên tòa có quyền yêu cầu các bên tiến hành tranh tụng hoặc chấm dứt tranh tụng, điều chỉnh nội dung cũng như phương pháp tranh tụng cho phù hợp với qui định của pháp luật để làm rõ các vấn đề của vụ án thông qua ý kiến của các bên tham gia tranh tụng.
– Mục tiêu của hoạt động tranh tụng là nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Sự thật khách quan này bao gồm sự thật như nó đã diễn ra trên thực tế và được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ pháp lý, dựa trên đối tượng của hoạt động tranh tụng là các quan điểm, luận cứ và luận chứng của các bên đưa ra trong việc giải quyết vụ án bao gồm chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội để từ đó khẳng định quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm hoặc thừa nhận quan điểm của bên tranh tụng đối lập trong việc buộc tội hoặc gỡ tội, để từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Tóm lại, chất lượng tranh tụng tại phiên tòa có được nâng cao hay không, phụ thuộc chủ yếu vào kỹ năng điều hành phần tranh tụng của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử cũng như kết quả phiên tòa tốt hay không tốt phụ thuộc chủ yếu vào vai trò của chủ toạ phiên toà vì:
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định, đồng thời phải chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án.
Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án.
Để điều khiển việc tranh tụng đạt kết quả theo ý muốn, đòi hỏi chủ tọa phiên tòa phải là người nắm chắc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, có kế hoạch xét hỏi chặt chẽ, cụ thể và chủ động tìm biện pháp giải quyết mọi tình huống xảy ra tại phiên tòa.
(Còn nữa)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ II)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ III)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (Kỳ IV)
Kỹ năng điều hành tranh tụng tại phiên tòa hình sự của thẩm phán (kỳ cuối)
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận