Vướng mắc trong giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng dân sự
Việc xác định nội dung khiếu nại, tố cáo và thẩm quyền giải quyết cũng như văn bản pháp luật áp dụng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, tố cáo và tính đúng đắn của cơ quan thực thi pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có nhiều nhận thức cũng như quan điểm khác nhau nên việc áp dụng pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thống nhất.
1. Quy định của pháp luật
1.1. Khiếu nại, tố cáo quy định trong BLTTDS năm 2015 là những khiếu nại, tố cáo liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, người tiến hành tố tụng, được thể hiện ở các giai đoạn tiến hành tố tụng thông qua ở các điều luật cụ thể mà bắt buộc cơ quan, người tiến hành tố tụng phải thực hiện đúng; khiếu nại, tố cáo quy định trong BLTTDS năm 2015 có phạm vi điều chỉnh là tố tụng dân sự; đối tượng áp dụng là người tiến hành tố tụng được quy định tại Điều 499[1].
1.2. Khiếu nại, tố cáo theo Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 của Chánh án TANDTC[2] có phạm vi điều chỉnh là khiếu nại, tố cáo trong TAND theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 4 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020[3], bao gồm:
“… Khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân, của người có thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân về quản lý hành chính nhà nước trong công tác tổ chức bộ máy và công tác cán bộ…..; Khiếu nại quyết định kỷ luật công chức, viên chức và người lao động trong Tòa án nhân dân;… Khiếu nại các quyết định xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thuộc thẩm quyền của Tòa án theo quy định tại Điều 48 của Luật xử lý vi phạm hành chính;…;
“… Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, đơn vị thuộc Tòa án nhân dân các cấp trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ; Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong Tòa án nhân dân trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ;…”.
Đối tượng bị khiếu nại quy định trong Thông tư này chỉ áp dụng trong TAND được quy định tại Điều 1, Điều 2 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020[4]: “… 1. Thông tư này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân hoặc cán bộ, công chức, viên chức thực hiện quyền khiếu nại; cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền trong Tòa án nhân dân có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại… 2. Thông tư này áp dụng đối với cá nhân trong việc thực hiện quyền tố cáo; cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo…”.
2. Thực tiễn áp dụng pháp luật
2.1. Vụ án 1
Vụ án dân sự thụ lý số 31/2021/TLST-DS ngày 08/02/2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” giữa nguyên đơn, bà Trần N và bị đơn Công ty cổ phần bất động sản H. Ngày 08/02/2021, TAND thành phố NT ban hành Thông báo về việc thụ lý vụ án số 31/2021/TLST-DS ngày 08/02/2021. Ngày 04/8/2022, Tòa án mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Sau khi hòa giải thành, bà Trần N có đơn thay đổi ý kiến hòa giải. Ngày 05/8/2022, Tòa án nhận được đơn khởi kiện bổ sung của bà Trần N với nội dung: yêu cầu thay đổi người bị kiện từ Công ty cổ phần bất động sản H sang người bị kiện là ông Lưu V. Ngày 24/10/2022, căn cứ Điều 5, Điều 70, Điều 71, Điều 210, Điều 244 của BLTTDS 2015[5], Thẩm phán đã ban hành Thông báo số 227/2022/TB-TA ngày 24/10/2022 về việc “không thụ lý yêu cầu khởi kiện bổ sung” vì yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà Trần N được thực hiện sau khi Tòa án đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và yêu cầu khởi kiện bổ sung là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu; do đó, yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà Trần N không được chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015[6], mục 7 phần III Văn bản số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ[7] và khoản 1 Điều 244 BLTTDS năm 2015.
Ngày 28/11/2022, TAND thành phố NT nhận được Đơn khiếu nại đề ngày 24/11/2022 của bà Trần N đối với “Thông báo số 227/2022/TB-TA ngày 24/10/2022 về việc không thụ lý đơn khởi kiện bổ sung”.
Ngày 02/12/2022, xét thấy khiếu nại trên thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo Điều 48 BLTTDS 2015 nên Tòa án thành phố NT đã trả lời đơn khiếu nại trên bằng Văn bản trả lời đơn số 15/2022/TLĐ-TA ngày 02/12/2022 trả lời cho bà Trần N biết.
Ngày 21/12/2022 và ngày 12/01/2023, bà Trần N gửi đơn khiếu nại lần 2 đến TAND tỉnh K, nội dung khiếu nại Văn bản số 15/2022/TLĐ-TA ngày 02/12/2022 của TAND thành phố NT. Ngày 14/3/2023, TAND tỉnh K đã giải quyết đơn khiếu nại trên bằng Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 06/2023/QĐ-GQKN ngày 14/3/2023 với nội dung: “Khiếu nại đối với Thông báo số 227/2022/TB-TA ngày 24/10/2022 về việc không thụ lý đơn khởi kiện bổ sung không thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chánh án. Do đó, khiếu nại của bà Trần N là không có cơ sở”, quyết định “Không chấp nhận khiếu nại đề ngày 21/12/2022 và ngày 12/01/2023 của bà Trần N. Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai có hiệu lực thi hành”.
Ngày 23/3/2023, TAND thành phố NT tiếp tục nhận được Đơn kiến nghị thủ tục giải quyết khiếu nại đề ngày 22/3/2023 của bà Trần N với nội dung yêu cầu Tòa án giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của BLTTDS năm 2015 và Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 của Chánh án TANDTC, tức là lập hồ sơ thụ lý và giải quyết bằng Quyết định giải quyết khiếu nại.
Ngày 24/3/2023, Tòa án nhân dân thành phố NT đã trả lời cho bà Trần N bằng Văn bản trả lời đơn số 06/2023/TLĐ-TA ngày 24/3/2023 với nội dung: “Đơn kiến nghị nêu trên đã được Tòa án nhân dân tỉnh K giải quyết bằng Quyết định giải quyết khiếu nại lần hai số 06/2023/QĐ-GQKN ngày 14/3/2023 và quyết định giải quyết trên có hiệu lực thi hành”.
2.2. Vụ án 2
Ngày 01/12/2022, TAND Thành phố NT nhận được Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với Công ty TNHH LA do Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư – thương mại và xây dựng VK nộp trực tiếp. Sau khi xem xét đơn yêu cầu cùng các tài liệu nộp kèm theo đơn. Xét thấy tài liệu yêu cầu tuyên bố phá sản còn thiếu, chưa đầy đủ căn cứ để yêu cầu mở thủ tục phá sản theo điểm b khoản 1 Điều 32, Điều 34 của Luật Phá sản[8], nên TAND thành phố NT đã ban hành Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản số 02/TB-SĐBS ngày 07/12/2022 và đã gửi Thông báo trên cho người yêu cầu theo quy định pháp luật.
Ngày 27/12/2022, TAND thành phố NT nhận được Đơn khiếu nại của Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư – thương mại và xây dựng VK về việc “Khiếu nại Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản số 02/TB-SĐBS ngày 07/12/2022 của TAND thành phố NT”.
Sau khi nghiên cứu đơn, báo cáo giải trình của Thẩm phán cùng các tài liệu liên quan, xét thấy khiếu nại trên thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán theo Điều 48 BLTTDS 2015 nên TAND thành phố NT không thụ lý giải quyết khiếu nại mà trả lời đơn khiếu nại trên bằng Văn bản trả lời đơn số 17/2022/TLĐ-TA ngày 29/12/2022 cho Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư – thương mại và xây dựng VK và đã gửi văn bản trả lời đơn cho Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư – thương mại và xây dựng VK theo đúng quy định của pháp luật.
2.3. Theo quan điểm của người viết, đối với Đơn khiếu nại của bà Trần N và Đơn khiếu nại của Công ty cổ phần tập đoàn đầu tư – thương mại và xây dựng VK nêu trên thì việc Tòa án không thụ lý, giải quyết khiếu nại bằng hình thức Quyết định mà bằng hình thức trả lời đơn là đúng theo quy định về khiếu nại, tố cáo của BLTTDS năm 2015 và phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng quy định tại các Điều 47, 48, 49, 50, 51, 57, 58, 59 BLTTDS năm 2015.
3. Tồn tại, vướng mắc
Từ hai vụ án nêu trên, thực tiễn quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại TAND có một số tồn tại, vướng mắc sau đây:
3.1. Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 phân định rõ là khiếu nại, tố cáo trong tố tụng không thuộc phạm vi điều chỉnh tại khoản 2 Điều 1 của Thông tư này; nhưng thực tiễn tại Tòa án, có nhiều trường hợp khi đương sự khiếu nại, tố cáo hành vi tố tụng của Tòa án thì Tòa án vẫn tiến hành lập hồ sơ thụ lý và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Thông tư 01. Nếu áp dụng Thông tư 01 để giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng thì đương sự có quyền khởi kiện vụ án hành chính[9] trong trường hợp không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại và như vậy vụ án sẽ bị kéo dài, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những đương sự khác.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau và vận dụng chưa đúng, gây hạn chế trong việc xem xét giải quyết khiếu nại. Do đó, khi nhận được đơn khiếu nại cần phải phân loại và xác định pháp luật điều chỉnh để việc áp dụng được chính xác.
3.2. BLTTDS năm 2015 chỉ quy định quy trình thụ lý và giải quyết khiếu nại đối với một số trường hợp là: Khiếu nại, kiến nghị đối với Thông báo trả lại đơn khởi kiện (Điều 194); Khiếu nại, kiến nghị đối với Quyết chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án khác giải quyết (Điều 41); Khiếu nại, kiến nghị đối với Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 141); Khiếu nại, kiến nghị đối với Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn (Điều 319).
Còn những trường hợp khiếu nại khác như: Khiếu nại, kiến nghị Thông báo không thụ lý đơn khởi kiện bổ sung[10]; Khiếu nại, kiến nghị Thông báo nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng; Khiếu nại, kiến nghị Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ; Khiếu nại, kiến nghị Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục thông thường; Khiếu nại, kiến nghị Thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện[11]; Khiếu nại, kiến nghị về việc chậm đưa vụ án ra xét xử,… các quyết định, hành vi khác liên quan đến hoạt động tố tụng thì BLTTDS 2015 lại không quy định quy trình giải quyết khiếu nại như thế nào.
Như vậy, Tòa án sẽ gặp khó khăn trong quá trình giải quyết khiếu nại, nên áp dụng tương tự như giải quyết khiếu nại đối với Thông báo trả lại đơn khởi kiện,… về thụ lý, giải quyết bằng Quyết định giải quyết khiếu nại hay không thụ lý vụ việc khiếu nại mà trả lời bằng hình thức văn bản?
BLTTDS năm 2015 quy định một số biểu mẫu giải quyết khiếu nại[12], nhưng tới thời điểm hiện tại chưa ban hành hết các biểu mẫu giải quyết, các Tòa án tự tạo ra mẫu dựa trên các biểu mẫu khác đã quy định để làm cơ sở ra quyết định giải quyết khiếu nại nên không chính xác và không thống nhất.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
4.1. Đối với đương sự có khiếu nại thuộc trường hợp khiếu nại khác nêu tại mục 2.4.3. thì không thuộc thẩm quyền giải quyết khiếu nại của Chánh án mà thuộc quá trình tố tụng, thuộc nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán đang giải quyết vụ án theo quy định tại Điều 48 BLTTDS năm 2015. Vì vậy, đối với những trường hợp này Chánh án trả lời bằng hình thức công văn trả lời đơn cho người khiếu nại được biết.
3.2. TANDTC cần ban hành văn bản hướng dẫn về áp dụng biểu mẫu đối với giải quyết khiếu nại trong Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 và BLTTDS năm 2015 để thống nhất chung khi giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3.3. Để nâng cao chất lượng giải quyết các loại án thì công tác giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo cũng phải đạt hiệu quả cao, đề nghị TANDTC cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về giải quyết khiếu nại, tố cáo bằng hình thức trực tiếp hoặc trực tuyến trong TAND, vì hiện nay công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều vướng mắc mà Luật chưa quy định hết.
Trên đây là một số ý kiến trao đổi cá nhân về việc “Xác định khiếu nại, tố cáo trong tố tụng và khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao” mà thực tế hiện nay còn có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau, rất mong nhận được ý kiến trao đổi của đồng nghiệp để góp phần hoàn thiện pháp luật; nâng cao hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Tòa án.
Xét xử vụ án dân sự - Ảnh: MH
[1] Điều 499 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
[2] Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020;
[3] Khoản 1, khoản 2 Điều 4 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020;
[4] Điều 1, Điều 2 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020;
[5] Điều 5, Điều 70, Điều 71, Điều 210, Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
[6] Khoản 3 Điều 200 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;
[7] Mục 7 phần III Văn bản số: 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ;
[8] Điểm b khoản 1 Điều 32, Điều 34 của Luật phá sản;
[9] Mẫu 10 Thông tư số 01/2020/TT-TANDTC ngày 18/6/2020 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;
[10] Vụ án 1;
[11] Vụ án 2;
[12] Mẫu số 28-DS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Mẫu số 7, mẫu số 8-DS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09 tháng 8 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
Bài liên quan
-
Khách hàng dự án Gem Sky World khiếu nại Thông báo số 387/TB-STNMT ngày 20/10/2023 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai
-
UBND tỉnh Đồng Nai chỉ đạo xử lý khiếu nại của công dân liên quan đến dự án Gem Sky World
-
Khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện tranh chấp vay tài sản
-
Giải quyết khiếu nại quyết định chuyển vụ việc dân sự cho Tòa án khác theo khoản 1 Điều 41 BLTTDS
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận