Quyền khởi kiện lại của nguyên đơn sau khi bị đình chỉ giải quyết vụ án do không nộp tạm ứng chi phí định giá

Thực tiễn hiện nay, việc xác định nguyên đơn có quyền khởi kiện lại hay không có nhiều quan điểm khác nhau, cần có cách hiểu đầy đủ để việc áp dụng pháp luật được thống nhất.

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS 2015) quy định nhiều điểm mới, trong đó có trường hợp Tòa án được đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí định giá và chi phí tố tụng khác theo quy định. Giải pháp này là một đòi hỏi của thực tiễn, giải quyết được những vướng mắc khi thi hành các văn bản tố tụng dân sự trước đó. Một trong những vấn đề được quan tâm đó là quyền khởi kiện lại của nguyên đơn khi thuộc trường hợp đình chỉ nêu trên.

1.Quy định của pháp luật

Tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản là số tiền mà Hội đồng định giá tạm tính để tiến hành việc định giá tài sản theo quyết định của Tòa án.[1] Số tiền tạm ứng này được xem là nghĩa vụ của các đương sự, trường hợp các bên đương sự không có thỏa thuận khác hoặc pháp luật không có quy định khác thì nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản được xác định như sau: (i) Người yêu cầu định giá tài sản phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản (ii) Trường hợp các bên đương sự không thống nhất được về giá và cùng yêu cầu Tòa án định giá tài sản thì mỗi bên đương sự phải nộp một nửa tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản. Trường hợp có nhiều đương sự, thì các bên đương sự cùng phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản theo mức mà Tòa án quyết định (iii) Đối với trường hợp Tòa án ra quyết định định giá và thành lập Hội đồng định giá quy định tại khoản 3 Điều 104 của BLTTDS 2015 thì nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản.[2] Như vậy, tùy vào từng trường hợp cụ thể mà chủ thể có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí định giá có sự khác nhau.

Theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS 2015 nếu nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản và chi phí tố tụng khác thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên cần lưu ý, trường hợp nguyên đơn đã nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản nhưng khi có kết quả định giá tài sản thì chi phí định giá cao hơn số tiền tạm ứng và Tòa án có yêu cầu nguyên đơn nộp bổ sung nhưng nguyên đơn không thực hiện không phải là căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.[3]

Khi thuộc trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án nêu trên thì tiền tạm ứng án phí mà đương sự đã nộp được trả lại cho họ. Đồng thời quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.[4]

Đối với quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó được quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS 2015, theo đó, đương sự không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS 2015 và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Như vậy, quy định này không trực tiếp liệt kê quyền khởi kiện lại đối với việc đình chỉ giải quyết vụ án thuộc trường hợp nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản. Chính vì vậy, thực tiễn hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau.

2.Một số quan điểm

Quan điểm thứ nhất cho rằng, do quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS 2015 không liệt kê đối với trường hợp Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự khi nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí định giá thì nguyên đơn được quyền khởi kiện lại, đồng thời Tòa án cũng không thể áp dụng quy định về các trường hợp khác được đề cập tại điều khoản nêu trên vì không có cơ sở pháp luật vững chắc, nên nguyên đơn không có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết lại vụ án dân sự đó, nếu việc khởi kiện vụ án sau không có gì khác với vụ án trước về nguyên đơn, bị đơn và quan hệ pháp luật có tranh chấp.

Quan điểm thứ hai cho rằng, trong trường hợp này đòi hỏi Thẩm phán phải có kỹ năng xử lý để đảm bảo quyền khởi kiện lại của nguyên đơn, theo đó trước khi đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, Thẩm phán cần giải thích cho nguyên đơn rõ về quyền khởi kiện lại vụ án của mình, đồng thời đưa ra giải pháp khác để khởi kiện lại vụ án khi nguyên đơn chưa có khả năng nộp tạm ứng chi phí định giá như nguyên đơn có thể rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện. Cách xử lý này, sẽ làm cho nguyên đơn hiểu hơn về quyền, nghĩa vụ của mình trong tố tụng dân sự cũng như bảo đảm quyền khởi kiện lại của nguyên đơn. Nếu sau khi Thẩm phán giải thích pháp luật mà nguyên đơn vẫn không lựa chọn cách thức xử lý nêu trên thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án, về quyền khởi kiện lại thống nhất như quan điểm thứ nhất.

Quan điểm thứ ba cho rằng, vì nhiều lý do khác nhau, trong đó có lý do về kinh tế, đặc biệt đối với những vụ án có giá trị tranh chấp lớn nên có thể nguyên đơn không đủ tài chính để nộp tạm ứng chi phí định giá. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn cần thiết áp dụng quy định về các trường hợp khác theo quy định tại khoản 1 Điều 218 BLTTDS 2015 để xác định nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án.

3.Kiến nghị

Quan điểm của tác giả, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[5]. Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013, BLTTDS 2015 khi xây dựng về quyền khởi kiện vụ án đã khẳng định “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.[6] Theo các quy định nêu trên, Tòa án phải bảo đảm quyền khởi kiện của nguyên đơn, cũng như quyền khởi kiện lại vụ án. Thực tế cho thấy, nhiều vụ án do số tiền tạm ứng chi phí định giá lớn nên nguyên đơn không có khả năng nộp tạm ứng hoặc phải đi vay tiền để thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của Tòa án, điều này có thể dẫn đến nhiều hệ lụy khác. Chính vì lẽ đó, nếu nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí định giá dẫn đến việc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án dân sự rồi sau đó họ không có quyền khởi kiện lại vụ án là chưa phù hợp, chưa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bởi lẽ trong trường hợp này nguyên đơn tạm thời không tiếp tục thực hiện quyền khởi kiện của mình chủ yếu do có khó khăn về tài chính.

Từ những phân tích nêu trên, tác giả kiến nghị cần phải sửa đổi BLTTDS 2015 hoặc TANDTC có hướng dẫn pháp luật thống nhất theo hướng nguyên đơn có quyền khởi kiện lại vụ án nếu thuộc trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án khi nguyên đơn không nộp tạm ứng chi phí định giá./.

Một phiên tòa dân sự – Ảnh minh họa của Anh Thế/ Dân trí

[1] Khoản 1 Điều 163 BLTTDS 2015.

[2] Điều 164 BLTTDS 2015.

[3] Mục 2 phần II Giải đáp số 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án nhân dân tối cao.

[4] Khoản 3, khoản 4 Điều 218 BLTTDS 2015.

[5] Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013.

[6] Điều 186 BLTTDS 2015.

Ths. NGUYỄN PHÁT LỘC ( Thẩm phán TAND huyện Châu Thành, Hậu Giang)- Ths CHÂU THANH QUYỀN (TAND tỉnh Hậu Giang)