Bàn về trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ của Thẩm phán theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)
Bài viết tập trung phân tích, luận bàn về trách nhiệm của Thẩm phán khi thu thập tài liệu, chứng cứ trong tố tụng dân sự theo Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi); từ đó, chỉ ra một số điểm vướng mắc, bất hợp lý trong các quy định của BLTTDS năm 2015 và đề xuất sửa đổi một số quy định nhằm hoàn thiện pháp luật.
Đặt vấn đề
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 quy định nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Đồng thời, BLTTDS năm 2015 cũng quy định nhiệm vụ của Thẩm phán là tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ (khoản 3 Điều 48 và khoản 3 Điều 198). Bên cạnh đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TCTAND) năm 2014 lại có quy định Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (khoản 4 Điều 2). Với những quy định như vậy, dẫn đến một thực tế là, nhiệm vụ của Thẩm phán trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ được đề cao hơn đương sự; nhiều đương sự chưa ý thức được việc chứng minh cho yêu cầu của mình, dẫn đến khởi kiện một cách tùy tiện, đẩy trách nhiệm thu thập tài liệu, chứng cứ cho cơ quan tiến hành tố tụng. Điều này không chỉ làm cho hoạt động của Tòa án quá tải, mà còn có thể ảnh hưởng đến sự khách quan, vô tư của Thẩm phán khi đánh giá, xem xét chính những tài liệu, chứng cứ mà mình tiến hành thu thập.
Điều 15 Dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) quy định trong vụ việc dân sự, các bên thu thập, cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án theo quy định của pháp luật, quy định trách nhiệm của Tòa án hướng dẫn, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ. Đồng thời, Điều luật cũng quy định trách nhiệm của Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ... trong trường hợp các bên đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ.
Quy định này có ý nghĩa quan trọng để xác định đúng bản chất của tố tụng dân sự (TTDS) - Tòa án chỉ là cơ quan phân xử đúng sai, phù hợp với pháp luật TTDS của nhiều quốc gia khác trên thế giới, trong bối cảnh nước ta đang hội nhập sâu, rộng với các quốc gia, vùng lãnh thổ khác. Quy định của Dự thảo còn thể hiện sâu sắc bản chất của chế độ ta, là đối với các trường hợp các đương sự không thể thu thập được tài liệu, chứng cứ dù đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết thì có quyền đề nghị Tòa án hỗ trợ.
Để làm rõ tính đúng đắn, sự cần thiết của Dự thảo Luật TCTAND sửa đổi về việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong việc giải quyết vụ việc dân sự, bài viết sẽ phân tích tính bất hợp lý và đề xuất sửa đổi một số quy định của BLTTDS năm 2015 về nghĩa vụ của đương sự trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, đồng thời, xác định đúng địa vị pháp lý của Thẩm phán khi thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự.
1. Khái quát về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng dân sự
Trên thế giới có nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, trong đó hai hệ thống pháp luật chủ yếu là hệ thống pháp luật Anh Mỹ (Common Law) và hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Continental Law - hay còn gọi là hệ thống pháp luật thành văn - Civil Law). Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong mỗi hệ thống pháp luật có những khác biệt nhất định, dẫn đến địa vị pháp lý của Thẩm phán cũng khác nhau. Trong hệ thống Common Law, nguồn luật chủ yếu là án lệ được hình thành do phán quyết của Thẩm phán, nên Thẩm phán vừa là người xét xử, vừa là người sáng tạo ra pháp luật một cách gián tiếp. Đối với hệ thống pháp luật Civil Law, luật thành văn là nguồn luật chính. Luật thành văn được hình thành chủ yếu bởi cơ quan lập pháp và có hiệu lực thi hành đối với mọi Tòa án, nên Thẩm phán chỉ tiến hành hoạt động xét xử, mà không tham gia hoạt động lập pháp, không được tạo ra các chế định, các quy phạm pháp luật khi thực hiện hoạt động xét xử.
Hoạt động xét xử của Tòa án Việt Nam đã phát triển từ tố tụng xét hỏi đến tố tụng đan xen những hạt nhân hợp lý của tố tụng tranh tụng. Vai trò của Thẩm phán tại Việt Nam tương đối giống với vai trò của Thẩm phán trong hệ thống Civil Law, tức là, họ cũng phải tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật thành văn khi giải quyết vụ án, nhưng thông qua thủ tục tố tụng đó, Thẩm phán cũng đồng thời là người xây dựng pháp luật khi ban hành các bản án nếu được lựa chọn là án lệ.
Hiến pháp năm 2013, Luật TCTAND năm 2014 đều khẳng định, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Tòa án thực hiện chức năng xét xử là một yêu cầu khách quan, nhiệm vụ không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền. Nhiệm vụ của Tòa án là thực hiện việc xét xử, giải quyết các loại vụ việc phát sinh từ các quan hệ pháp luật hình sự, hôn nhân và gia đình, dân sự, lao động, kinh doanh, thương mại, hành chính. Để thực hiện nhiệm vụ đó, pháp luật xác định và trao cho Thẩm phán - người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn luật định, được Chủ tịch nước bổ nhiệm, quyền hạn cụ thể, để có thể thực hiện được quyền đưa ra phán quyết đúng đắn khi thực hiện chức năng xét xử của Tòa án.
Địa vị pháp lý của Thẩm phán được thể hiện trên cơ sở nhiệm vụ, quyền hạn mà pháp luật quy định cho Thẩm phán. Không giống như những chủ thể tiến hành tố tụng khác (bao gồm cả chủ thể tiến hành tố tụng là Điều tra viên, Kiểm sát viên...), Thẩm phán là chủ thể tiến hành tố tụng đặc biệt, Thẩm phán (hoặc cùng với Hội thẩm nhân dân) nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi xét xử, giải quyết các vụ việc hình sự, dân sự, hành chính bằng việc ban hành bản án, quyết định trên cơ sở nội dung vụ án, quy định pháp luật và niềm tin nội tâm của Thẩm phán.
Địa vị pháp lý của Thẩm phán còn thể hiện ở trách nhiệm pháp lý có thể phát sinh khi thực thi công vụ. Quyền hạn, nhiệm vụ càng quan trọng, thì trách nhiệm càng lớn. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình trong hoạt động xét xử. Nếu Thẩm phán có hành vi vi phạm pháp luật, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và bồi thường thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Một cách chung nhất, có thể khái quát địa vị pháp lý của Thẩm phán trong TTDS là tổng thể các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán do pháp luật quy định, thể hiện vị trí, vai trò của Thẩm phán trong việc xét xử, giải quyết các vụ việc dân sự.
2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán khi thu thập tài liệu trong tố tụng dân sự và kiến nghị
Thứ nhất, vấn đề về tài liệu, chứng cứ trước khi thụ lý vụ án
Pháp luật TTDS hiện hành quy định về việc nộp đơn khởi kiện được thực hiện trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử. Kèm theo đơn khởi kiện, người khởi kiện phải nộp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Thực tiễn cho thấy, có những khó khăn nhất định đối với người khởi kiện, bởi không phải người khởi kiện nào cũng cung cấp đủ các tài liệu để chứng minh cho yêu cầu ban đầu của mình để được Tòa án thụ lý giải quyết. Cụ thể là: việc cung cấp các loại giấy tờ liên quan đến người bị kiện (họ tên, năm sinh, địa chỉ…) hoặc các tài liệu liên quan đến đối tượng tranh chấp, giấy tờ chứng minh quyền tài sản của người khởi kiện, người bị kiện… Tuy nhiên, với quy định về xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tại Điều 6), Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án đã tháo gỡ một phần khó khăn cho người khởi kiện xử lý việc ghi địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, với sự chuyển biến mạnh mẽ của việc thực hiện Đề án 06 về “Phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030”[1], ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia được thực hiện tích cực như hiện nay, về cơ bản, những khó khăn, vướng mắc này đã được khắc phục. Người khởi kiện, người yêu cầu đều có thể cung cấp đúng, đầy đủ thông tin của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định pháp luật khi khởi kiện. Để bảo đảm việc kiểm tra tính đúng đắn, có căn cứ các thông tin do đương sự xuất trình một cách chủ động, nhanh chóng và chính xác, pháp luật cần trao cho Tòa án có quyền khai thác các thông tin trên dữ liệu dân cư (theo cấp độ), thay vì việc yêu cầu các đương sự phải xuất trình, cung cấp các bản sao, chứng thực không cần thiết.
Thứ hai, vấn đề đương sự cung cấp các tài liệu, chứng cứ sau khi thụ lý vụ án
Như đã phân tích ở trên, bên cạnh việc quy định nghĩa vụ của đương sự trong việc xuất trình tài liệu, chứng cứ chứng minh, thì pháp luật hiện hành cũng quy định nhiệm vụ của Thẩm phán trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ và hậu quả pháp lý của Thẩm phán trong việc xét xử vụ án mà chứng cứ không đầy đủ. Do đó, khi giải quyết các vụ án dân sự nói chung, đương sự gần như phó mặc cho Thẩm phán thực hiện hoạt động chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của họ. Thẩm phán phải thực hiện nhiều biện pháp thu thập chứng cứ khác nhau, như: triệu tập các đương sự, người tham gia tố tụng khác để lấy lời khai, đối chất, xác minh tại các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ, định giá, giám định… để làm căn cứ đưa ra phán quyết của mình. Như vậy, Thẩm phán sẽ “tự định hướng” để thu thập tài liệu, chứng cứ để “phù hợp” với định hướng của mình. Đây là sự bất hợp lý trong quy định của pháp luật TTDS và Luật TCTAND năm 2014, không phù hợp với bản chất chứng minh trong TTDS.
Bên cạnh áp lực từ việc giải quyết các vụ án dân sự với số lượng lớn và tính chất phức tạp của tranh chấp, Thẩm phán còn chịu áp lực bởi chính sự phức tạp từ đương sự khi liên tục có đơn thư khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ với lý do các đương sự “cảm thấy” chứng cứ Thẩm phán thu thập chưa đầy đủ, không khách quan, hoặc sẽ gây bất lợi cho họ. Do đó, về nguyên tắc chung, pháp luật cần quy định nhiệm vụ chứng minh trong vụ án thuộc về đương sự, không phải là nhiệm vụ và trách nhiệm của Thẩm phán. Nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ, hoặc không đưa ra đủ chứng cứ, thì Tòa án tiến hành giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung; đương sự phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ như Điều 15 Dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) quy định.
Đối với các trường hợp đương sự có khó khăn trong việc tiếp cận tài liệu, chứng cứ từ các chủ thể khác và có yêu cầu, thì Thẩm phán có thể hỗ trợ bằng việc xử lý các hành vi cản trở hoạt động thu thập chứng cứ theo Điều 13 Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Hoặc trường hợp đương sự là người yếu thế, Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ thông qua các dịch vụ pháp lý công, như trợ giúp pháp lý nhà nước, hoặc hoạt động miễn phí của các tổ chức phi lợi nhuận được phép cung cấp dịch vụ pháp lý.
Thứ ba, vấn đề yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp các tài liệu, chứng cứ
Pháp luật TTDS quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ, làm căn cứ giải quyết vụ án. Có ý kiến cho rằng, các đương sự sẽ gặp khó khăn trong việc đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc này. Tuy nhiên, cùng với sự hoàn thiện quy định pháp luật, sự quyết liệt của hệ thống Tòa án trong việc triển khai thực hiện Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng, tình trạng này sẽ cơ bản được khắc phục trong thời gian tới. Các chủ thể lưu giữ tài liệu, chứng cứ mà không cung cấp theo yêu cầu của Tòa án, đương sự, thì Thẩm phán sẽ áp dụng các quy định pháp luật để xử phạt vi phạm hành chính, trường hợp có dấu hiệu tội phạm, thì cần phải đề nghị cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự. Thực hiện tốt nguyên tắc trên là cơ sở bảo đảm thực hiện được các nguyên tắc khác của BLTTDS năm 2015 là “cung cấp chứng cứ và chứng minh trong TTDS” (Điều 6), “bảo đảm tranh tụng trong xét xử” (Điều 24) và là cơ sở thực tiễn bảo đảm quy định tại Điều 15 Dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) được thực hiện trên thực tế. Hơn nữa, nếu chứng cứ của vụ án đầy đủ, sẽ giúp Thẩm phán giải quyết các vụ án một cách đúng đắn, chính xác, nhanh chóng và triệt để, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Qua đó, nâng cao vị thế, vai trò của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Thứ tư, địa vị pháp lý của Thẩm phán khi chủ động thu thập tài liệu, chứng cứ
Hiện nay, các biện pháp thu thập chứng cứ được áp dụng linh hoạt, tùy thuộc vào từng loại vụ án và từng vụ án cụ thể. Đồng thời, không phải tất cả các biện pháp thu thập chứng cứ đều do Thẩm phán chủ động tiến hành, như việc định giá tài sản, trưng cầu giám định... phải được một trong các bên đương sự yêu cầu, trừ trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, BLTTDS hiện hành quy định Thẩm phán cũng có nhiệm vụ, quyền hạn thu thập chứng cứ là không phù hợp với các căn cứ lý luận và thực tiễn mà chúng tôi đã đề cập ở trên. Bản chất vụ án dân sự là tranh chấp giữa các bên đương sự và các bên phải có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, phù hợp với nguyên tắc mà BLTTDS hiện hành quy định là “đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Thẩm phán chỉ có nhiệm vụ hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án. Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, nước ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng trong các quan hệ quốc tế; trình độ nhận thức của đương sự dần được nâng cao thông qua nhiều kênh thông tin, đặc biệt là Internet, thì Luật TCTAND, BLTTDS cần có sự thay đổi để TTDS trở về đúng nghĩa của nó, theo đó, Tòa án chỉ là cơ quan phân xử đúng sai, còn nghĩa vụ cung cấp chứng cứ phải là của đương sự.
BLTTDS năm 2015 đã quy định và khắc phục một số tồn tại, vướng mắc trong quá trình Thẩm phán thực hiện việc thu thập chứng cứ, nhưng vẫn còn những quy định chưa phù hợp và cụ thể, ảnh hưởng đến việc chứng minh của đương sự và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, cụ thể như sau:
Về lấy lời khai của đương sự và những người tham gia tố tụng khác: Thực tế, trong thời gian qua, Thẩm phán lấy lời khai trong TTDS gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém về tài chính, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết các vụ án. Một mặt, do đương sự, người tham gia tố tụng khác đi làm trong giờ hành chính, hoặc công việc không ổn định, sinh sống, làm việc ở nước ngoài, hoặc nhiều địa phương khác nhau, không có địa chỉ hoặc địa chỉ không rõ ràng... Mặt khác, đa số các vụ án tranh chấp dân sự, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không hợp tác, trốn tránh làm việc và nhận văn bản tố tụng của Tòa án… Trong khi đó, BLTTDS hiện hành đã quy định đương sự có nghĩa vụ viết bản tự khai theo khoản 1 Điều 98 BLTTDS năm 2015 và quyền lấy xác nhận của người làm chứng theo điểm c khoản 1 Điều 97 BLTTDS năm 2015, nên trong trường hợp đương sự tự khai chưa đầy đủ, thì Thẩm phán có trách nhiệm hướng dẫn, yêu cầu đương sự khai bổ sung những vấn đề còn thiếu để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án.
Hơn nữa, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp vụ án dân sự tại TAND vẫn còn cứng nhắc, thiếu tính linh hoạt. Việc quy định các thủ tục tố tụng phải thực hiện trực tiếp giữa người tiến hành tố tụng với các chủ thể khác là không cần thiết. Pháp luật TTDS cần áp dụng những thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án, như yêu cầu cung cấp chứng cứ, tống đạt các văn bản tố tụng, mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên họp giải quyết việc dân sự, xét xử... thông qua việc dùng điện thoại, email, các nền tảng xã hội như Zalo, Facebook...
Về xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản: Điều 101 BLTTDS năm 2015 quy định về xem xét, thẩm định tại chỗ để xác định tài sản tranh chấp, những tài sản có liên quan là cơ sở cho việc định giá tài sản. Nhiều trường hợp, Thẩm phán không xem xét, thẩm định tại chỗ và quyết định định giá tài sản chỉ trên sự liệt kê tài sản của đương sự, khi tiến hành định giá thì phát sinh những tài sản khác có liên quan (Ví dụ: Định giá quyền sử dụng đất, trên đất có cây, có các công trình khác…) mà trong quyết định định giá tài sản không có. Hội đồng định giá không thể định giá tài sản phát sinh được, vì tài sản đó chưa có trong quyết định định giá, dẫn đến phải định giá bổ sung gây tốn kém và kéo dài thời gian tố tụng. Vì vậy, việc xem xét, thẩm định tại chỗ là bước quan trọng để Thẩm phán cùng đương sự xác định những tài sản tranh chấp, những tài sản nào có liên quan.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ còn có ý nghĩa là cơ sở để Thẩm phán (Hội đồng xét xử) quyết định giải quyết vụ án. Khi giải quyết tranh chấp nhà đất, nếu chỉ nhìn trên sơ đồ, bản vẽ do đương sự cung cấp, mà không trực tiếp xem xét, thẩm định tại chỗ, sẽ dễ dẫn đến sai sót khi quyết định, phân chia. Ngoài ra, đối với các vụ án có nhiều nhà, công trình, nhiều bất động sản trên đất, việc xem xét, thẩm định tại chỗ do Thẩm phán và đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã (hoặc cơ quan, tổ chức nơi có tài sản) thực hiện sẽ không bảo đảm sự chính xác, dẫn đến không bảo đảm cho việc thi hành án. Chính vì vậy, BLTTDS cần quy định việc xem xét, thẩm định tại chỗ có thể có sự tham gia của các cơ quan chuyên môn khác. Đồng thời, việc xem xét, thẩm định tại chỗ “được ghi thành biên bản” theo quy định tại khoản 2 Điều 101 BLTTDS năm 2015 là chưa đầy đủ, bởi vì gần như tất cả các trường hợp Tòa án xem xét thẩm định về tài sản tranh chấp là nhà ở, quyền sử dụng đất đều phải ghi nhận kết quả xem xét, thẩm định bằng sơ đồ, bản vẽ, thậm chí là bằng hình ảnh, video. Một khó khăn nữa trong quá trình thẩm định, định giá tài sản, là việc đương sự gây khó khăn bằng việc không hợp tác như không giao tài sản, không mở cửa cho vào định giá nhà, tài sản bên trong... dẫn đến không thể xác định được cụ thể thực trạng, số lượng và giá trị tài sản tranh chấp.
Những vướng mắc, khó khăn nêu trên hoàn toàn có thể được tháo gỡ khi trao cho đương sự có quyền và nghĩa vụ thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án theo yêu cầu. Các đương sự được bảo đảm thực hiện quyền của mình nêu trên bằng các dịch vụ của các tổ chức đo đạc, tổ chức thẩm định giá tài sản, tổ chức giám định khi có yêu cầu. Thẩm phán có quyền xem xét, thẩm định tại chỗ đối với tài sản tranh chấp, không nên quy định đây là trách nhiệm khi thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ.
Từ thực tiễn nêu trên, chúng tôi cho rằng, Luật TCTAND, BLTTDS cần sửa đổi theo hướng, Thẩm phán hướng dẫn, yêu cầu đương sự thu thập chứng cứ và chỉ tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ theo khoản 2 Điều 97 BLTTDS năm 2015 trong trường hợp đương sự đã thực hiện mọi biện pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ như khoản 4 Điều 15 Dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) đã đưa ra. Chỉ với biện pháp thu thập chứng cứ bằng việc tiếp nhận chứng cứ, tài liệu do đương sự giao nộp, quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ theo quy định của pháp luật cho đương sự khi có yêu cầu, Thẩm phán có thể có đầy đủ tài liệu, chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật.
Kết luận
Từ những phân tích trên, chúng tôi thấy rằng, việc Dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) quy định việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong vụ việc dân sự trước tiên thuộc về các đương sự theo quy định của pháp luật, quy định Tòa án có trách nhiệm hướng dẫn, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ. Đồng thời, Dự thảo quy định cụ thể trường hợp Tòa án hỗ trợ thu thập tài liệu, chứng cứ khi các bên đã thực hiện mọi biên pháp cần thiết nhưng không thu thập được tài liệu, chứng cứ và đề nghị Tòa án hỗ trợ là hoàn toàn phù hợp về cả lý luận và thực tiễn, đúng với bản chất của TTDS và chức năng của Tòa án. Quy định này bảo đảm thực hiện đúng nguyên tắc vô tư, khách quan, để Tòa án thực sự là trọng tài và phán quyết của Tòa án chỉ dựa trên cơ sở chứng cứ mà các bên đưa ra, thực sự tôn trọng nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của các đương sự trong TTDS./.
[1] Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
3. Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi.
4. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án.
TAND tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ tranh chấp đất đai - Ảnh: T.Tâm
Bài liên quan
-
Bình Dương: Khởi công dự án Khu chung cư Tân Đông Hiệp
-
Xác định phí dịch vụ chung cư theo quy định của UBND tỉnh khi đã có Hợp đồng dịch vụ quản lý vận hành nhà chung cư
-
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung BLTTDS năm 2015 tương thích với Luật Tổ chức TAND năm 2024 về việc thu thập tài liệu, chứng cứ
-
Cư dân yêu cầu kiểm toán quỹ bảo trì chung cư với số tiền 70 tỷ đồng
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khởi kiện không đúng bị đơn trong vụ án dân sự - Thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện
-
Tạm thời không tuyển dụng công chức, giảm tối thiểu 5 bộ, 2 cơ quan thường trực Chính phủ
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện
-
Chủ tịch nước Lương Cường thăm và làm việc với Tòa án nhân dân tối cao
Bình luận