Bàn về việc xác định các bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch dân sự và thực tiễn áp dụng

Bài viết tập trung phân tích, đánh giá quy định về việc xác định các bên đã thực hiện được ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015; trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả đưa ra một số đề xuất, kiến nghị cụ thể.

1. Quy định của pháp luật dân sự về giao dịch dân sự, các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức và ngoại lệ

Điều 116 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015) quy định khái niệm giao dịch dân sự như sau:

“Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”

Trong đó, hình thức của giao dịch dân sự sẽ phản ánh được nội dung giao dịch giữa các bên, các chủ thể tham gia. Đây chính là căn cứ để Tòa án xác định quyền và nghĩa vụ ràng buộc của các bên khi giao dịch đã được xác lập, để xác định trách nhiệm dân sự trong trường hợp có hành vi vi phạm, tranh chấp xảy ra.

Các hình thức của giao dịch dân sự: theo quy định tại Điều 119 BLDS 2015, giao dịch dân sự có các hình thức như sau: Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong đó, đối với hình thức bằng văn bản, luật quy định các trường hợp: giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Như vậy, các bên khi tham gia giao dịch dân sựu có quyền lựa chọn một trong cách hình thức giao dịch nêu trên. Tuy nhiên, đối với trường hợp luật quy định bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì các bên tham gia giao dịch không có quyền lựa chọn hình thức giao dịch mà có nghĩa vụ tuân theo hình thức luật định. Do vậy, trường hợp giao dịch được thiết lập vi phạm quy định về hình thức thì có thể bị tuyên vô hiệu.

Nội dung này được ghi nhận cụ thể tại Điều 117 BLDS năm 2015, theo đó, để giao dịch dân sự có hiệu lực thì phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

– Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

– Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

– Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

– Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.

Theo quy định tại Điều luật, để giao dịch dân sự có hiệu lực thì phải đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên. Đặc biệt là giao dịch dân sự phải tuân thủ quy định về hình thức mà pháp luật quy định đối với các trường hợp mà luật có quy định cụ thể. Ví dụ:  hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bắt buộc phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực.

Tuy nhiên, để đáp ứng đòi hỏi của xã hội, phù hợp với thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, Điều 129 BLDS năm 2015 quy định về các trường hợp ngoại lệ, cụ thể:

“Giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:

1. Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó;

2. Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.”.

Đây được đánh giá là quy định mới mang nhiều tiến bộ, nhân văn và phù hợp với thực tiễn đời sống dân sự ở nước ta. Bởi thực tế, khi xác lập các giao dịch dân sự, các bên hoặc một bên đương sự do không hiểu biết pháp luật, do tin tưởng nhau,… nên đã thiết lập các giao dịch dân sự vi phạm điều kiện về hình thức. Thực trạng này xảy ra khá nhiều đối với các giao kết về đất đai[1], do vậy, quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 tạo ra cơ chế xử lý linh hoạt, có tình, có lý, bảo đảm nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, thiện chí, trung thực trong xác lập các giao dịch dân sự[2].

Từ điều luật trên, chúng ta có thể hiểu rằng, đối với các giao dịch dân sự có yêu cầu về điều kiện có hiệu lực về hình thức như phải lập thành văn bản, văn bản phải được công chứng, chứng thực thì mới có hiệu lực. Ví dụ đối với hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho cho nhà, đất, … Tuy nhiên, trường hợp các bên không tuân thủ quy định về hình thức nhưng một hoặc các bên chủ thể đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch đó thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch có hiệu lực.

2. Một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Có thể thấy, quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 là một quy định tiến bộ và nhân văn, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn đời sống dân sự ở nước ta. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định tại Điều luật này cho thấy còn có nhiều tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục, hoàn thiện.

Thứ nhất, đối với quy định “đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch” còn chưa thống nhất trong thực tiễn áp dụng.  

Nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thì thấy, hiện chưa có văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể về quy định này, mà mới chỉ có quy định tại Án lệ số số 55/2022/AL, nội dung Án lệ như sau:

“[6] Về thời hạn thực hiện giao dịch được hai bên xác định là từ khi xác lập giao dịch cho đến khi phía bị đơn thực hiện xong nghĩa vụ sang tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn, nên đây là giao dịch đang được thực hiện, về nội dung, hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 là đúng với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Như vậy, tuy thời điểm các bên thỏa thuận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội dung thỏa thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thỏa thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thời điểm giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang đứng tên bị đơn là đã đủ điều kiện để chuyển nhượng.

Theo quy định tại Điều 116, khoản 2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì tuy giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên không tuân thủ về hình thức được quy định tại khoản 1 Điều 502 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng bên nguyên đơn đã thực hiện giao cho phía bị đơn 110.000.000 đồng, phía bị đơn đã giao quyền sử dụng đất cho nguyên đơn là đã thực hiện hơn 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch nên giao dịch được công nhận hiệu lực…”[3].

Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn quan điểm chưa thống nhất, cụ thể:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, theo nội dung Án lệ số 55/2022/AL về công nhận hiệu lực của hợp đồng vi phạm điều kiện về hình thức thể hiện tình tiết như sau: “[6]… Như vậy, tuy thời điểm các bên thoả thuận việc chuyển nhượng QSDĐ thì phía bị đơn chưa được cấp đất nên chỉ lập giấy viết tay thể hiện nội dung thoả thuận, nhưng khi được cấp đất các bên đã thay đổi thoả thuận bằng lời nói thành chuyển nhượng thửa 877 và tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận QSDĐ, thời điểm giao giấy chứng nhận QSDĐ đang đứng tên bị đơn là đủ điều kiện để chuyển nhượng…”. Theo đó, đối với nội dung án lệ này cho thấy các bên tiếp tục thực hiện hợp đồng bằng việc giao thêm tiền, giao đất, giao giấy chứng nhận QSDĐ (hợp đồng đang được thực hiện), còn trong trường hợp bên chuyển nhượng chưa giao đất cho bên nhận chuyển nhượng hoặc chưa giao giấy chứng nhận QSDĐ cho bên nhận chuyển nhượng, thì tình tiết trong trường hợp này không tương tự với tình tiết mà nội dung Án lệ số 55/2022/AL đề cập nên không thể xem xét áp dụng Án lệ số 55/2022/AL để công nhận hiệu lực của hợp đồng.

Quan điểm thứ hai cho rằng, việc áp dụng Án lệ số 55/2022/AL trong xét xử phải được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP. Theo đó, “Khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm phải nghiên cứu, áp dụng án lệ, bảo đảm những vụ việc có tình huống pháp lý tương tự thì phải được giải quyết như nhau. Trường hợp vụ việc có tình huống pháp lý tương tự nhưng Tòa án không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ lý do trong bản án, quyết định của Tòa án”.  Quy định này đã nêu rõ những vụ việc có “tình huống pháp lý tương tự” thì phải được giải quyết như nhau, tức là việc xem xét vụ việc đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ vi phạm điều kiện về hình thức có tương tự hay không thì phải căn cứ vào tình huống pháp lý của Án lệ số 55/2022/AL chứ không thể căn cứ vào “tình tiết tương tự của bản án, quyết định” được viện dẫn làm án lệ (vụ việc tạo ra án lệ) hoặc “nội dung án lệ tại đoạn 6 phần “Nhận định của Toà án”.[4]

Bên cạnh đó, trong Án lệ số 55 thì các bên đã cùng thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, nếu mới chỉ có một bên thực hiện 2/3 nghĩa vụ của mình nhưng tổng thể chưa được 2/3 nghĩa vụ của toàn bộ GDDS, thì áp dụng thế nào[5].

Đồng thời, tại Công văn số 1083/VKSTC-V9 ngày 26/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, đối với thắc mắc của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giải đáp như sau: việc xác định đã thực hiện 2/3 nghĩa vụ hay chưa phải dựa trên thỏa thuận của các bên trong giao dịch về số lượng, loại công việc, số tiền,... phải thực hiện. Nếu là nghĩa vụ giao hàng, phải giao ít nhất 2/3 khối lượng; nếu là nghĩa vụ trả tiền, phải trả ít nhất 2/3 số tiền; nếu là nghĩa vụ hoàn thành một công việc, phải thực hiện ít nhất 2/3 công việc đó. Bên cạnh đó, đương sự có yêu cầu công nhận hiệu lực của giao dịch trong trường hợp trên có nghĩa vụ chứng minh mức độ hoàn thành nghĩa vụ để Tòa án xác định đã đạt 2/3 nghĩa vụ trong giao dịch dân sự hay chưa. Như vậy, điểm chung là đối tượng của nghĩa vụ đó phải xác định được, và có thể hiểu là một trong các trường hợp: Một bên hoặc các bên đã chuyển giao ít nhất 2/3 vật, hoặc 2/3 quyền, hoặc 2/3 số tiền; hay một bên hoặc các bên đã hoàn thành ít nhất 2/3 công việc đã thỏa thuận (Câu 34)[6].

Tuy nhiên, xét về hiệu lực pháp lý thì Công văn số 1083/VKSTC-V9 là văn bản mang tính nội bộ, do đó, không có giá trị pháp lý như một văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng chung khi giải quyết các vụ an dân sự có liên quan.

Tác giả kiến nghị, trong thời gian tới, Tòa án nhân dân tối cao cần phối hợp với các cơ quan có liên quan để sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn cụ thể về cách xác định “2/3 nghĩa vụ” trong các giao dịch dân sự, theo đó, cần có tiêu chí cụ thể để xác định mức độ thực hiện nghĩa vụ của một hoặc các bên để bảo đảm sự công bằng và khách quan. Tác giả đề xuất, các tiêu chí này cần được đánh giá dựa trên bản chất của giao dịch dân sự, tỷ lệ hoàn thành các nghĩa vụ trọng yếu và sự thiện chí của các bên mà không chỉ gồm những tiêu chí mang tính định tính, cứng nhắc.

Thứ hai, về kỹ thuật lập pháp

Điều 129 BLDS được thiết kế gồm 02 khoản quy định về các trường hợp “ngoại lệ” của giao dịch dân sự vô hiệu về hình thức. Tuy nhiên, nghiên cứu quy định tại Điều luật này thì thấy việc tách thành 02 khoản là không thực sự cần thiết và có phần trùng lặp. Cụ thể:

Theo quy định tại Điều 119 BLDS năm 2015 quy định về hình thức của giao dịch dân sự bao gồm:

-Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói,

- Giao dịch dân sự bằng văn bản;

- Giao dịch dân sự bằng hành vi.

Như vậy, luật quy định có 03 hình thức giao dịch dân sự cơ bản và mở rộng các trường hợp đối với hình thức giao dịch bằng văn bản, cụ thể: giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản; và trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

Quy định tại Điều 129 BLDS năm 2015 điều chỉnh các trường hợp “ngoại lệ” do vi phạm quy định về hình thức giao dịch đối với giao dịch dân sự được xác lập bằng văn bản mà không bằng các hình thức khác như bằng lời nói hoặc bằng hành vi. Đồng thời, khoản 1 Điều 129 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật…”, ở đây, có thể hiểu trường hợp giao dịch dân sự đã được xác lập bằng hình thức văn bản nhưng không đúng quy định của luật là bao gồm cả trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký quy định tại khoản 2 Điều 119 BLDS năm 2015.

Tác giả cho rằng, việc tách thành 02 khoản tại Điều 129 BLDS năm 2015 là không cần thiết, mang tính trùng lặp, do đó, tác giả kiến nghị, khi sửa đổi, bổ sung BLDS năm 2015, nhà làm luật nên sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều luật này. Tác giả đề xuất nội dung Điều luật được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Đối với trường hợp vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực”.

 Kết luận

Quy định tại Điều 129 BLDS 2015 đã phát huy vai trò tích cực, đáp ứng kỳ vọng hạn chế tình trạng các bên không thiện chí lợi dụng việc vi phạm hình thức để hủy bỏ giao dịch. Tuy nhiên, Điều 129 BLDS 2015 cần được xem là một ngoại lệ đặc biệt, không nên được áp dụng một cách cứng nhắc, mà cần được áp dụng linh hoạt trên cớ sở bản chất của từng vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, để Điều luật này thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn thì cần có những điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung phù hợp.

 

[1] Xem thêm: ThS. PHAN THÀNH NHÂN (TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) - NGUYỄN THIỆN PHÁN (TAND thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương), Bàn về áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 và Án lệ số 55/2022/AL đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không tuân thủ quy định về hình thức, https://tapchitoaan.vn/ban-ve-truong-hop-ap-dung-dieu-129-blds-nam-2015-va-an-le-so-552022al11721.html, truy cập ngày 10/6/2025.

 

[2] Xem khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015.

[3] Xem: ThS. PHAN THÀNH NHÂN (TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) - NGUYỄN THIỆN PHÁN (TAND thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương), Tlđd.

 

[4] Xem: ThS. PHAN THÀNH NHÂN (TAND huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) - NGUYỄN THIỆN PHÁN (TAND thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương), Tlđd.

 

[5] GS.TS. Đỗ Văn Đại, Chuyện 'bếp núc' quanh Án lệ số 55/2022/AL, https://plo.vn/chuyen-bep-nuc-quanh-an-le-so-552022al-post705036.html, truy cập ngày 10/6/2025.

NGUYỄN TIẾN SỸ (Phó Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai)

Ảnh: nguồn Internet

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Dân sự năm 2015;

2. Án lệ Án lệ số số 55/2022/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 07 tháng 9 năm 2022 và được công bố theo Quyết định số 323/QĐ-CA ngày 14 tháng 10 năm 2022 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao;

3. Công văn số 1083/VKSTC-V9 ngày 26/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, https://thuvienphapluat.vn/cong-van/Thu-tuc-To-tung/Cong-van-1083-VKSTC-V9-2024-giai-dap-vuong-mac-cong-tac-kiem-sat-vu-viec-dan-su-604785.aspx, truy cập ngày 15/6/2025.

4. Phan Thành Nhân, Nguyễn Thiện Phán, Bàn về áp dụng Điều 129 BLDS năm 2015 và Án lệ số 55/2022/AL đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không tuân thủ quy định về hình thức, https://tapchitoaan.vn/ban-ve-truong-hop-ap-dung-dieu-129-blds-nam-2015-va-an-le-so-552022al11721.html, truy cập ngày 10/6/2025.

5. GS.TS. Đỗ Văn Đại, Chuyện 'bếp núc' quanh Án lệ số 55/2022/AL, https://plo.vn/chuyen-bep-nuc-quanh-an-le-so-552022al-post705036.html, truy cập ngày 10/6/2025.