.jpg)
Bình luận Án lệ số 72/2024/AL về xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất trong trường hợp di chúc không thể hiện diện tích đất cụ thể
Án lệ số 72/2024/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua vào các ngày 20, 21, 23/02/2024 và được công bố theo Quyết định 119A/QĐ-CA ngày 15/5/2024 của Chánh án TAND tối cao (sau đây gọi tắt là Án lệ).
1. Khái quát nội dung của Án lệ
- Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 60/2022/DS-GĐT ngày 19/12/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án dân sự “Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị G với bị đơn là ông Nguyễn Văn U; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm 19 người.
- Tình huống Án lệ: Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được định đoạt theo di chúc hợp pháp, nội dung di chúc có xác định tứ cận nhưng không thể hiện diện tích đất cụ thể và không có tranh chấp về tứ cận.
- Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được xác định theo diện tích đất đo đạc thực tế theo tứ cận thể hiện trong di chúc.
- Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
Các điều 624, 630 và 634 Bộ luật Dân sự năm 2015.
- Tóm tắt nội dung liên quan đến Án lệ số 72[1]:
[1] Phần đất tranh chấp có diện tích đo đạc thực tế là 35.180,7m thuộc thửa đất số 809, 810 tờ bản đồ số 10D (theo hồ sơ địa chính năm 1993) nay là thửa đất số 135, 136 tờ bản đồ số 10 (theo hồ sơ địa chính năm 2006) tại ấp N, xã T, huyện P, tỉnh Cà Mau có nguồn gốc là của cụ Nguyễn Văn M (chết năm 1998) và cụ Nguyễn Thị B (chết năm 2010). Hiện trạng trên đất có 01 nhà chính, diện tích 58,29m2 (xây năm 1993), cây nước khoan, cây trồng và khu mộ gồm 03 ngôi mộ.
[2] Cụ M, cụ B có 08 người con gồm: Bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị M1, ông Nguyễn Văn C (đã chết, không rõ năm nào), bà Nguyễn Thị G, ông Nguyễn Văn K (chết năm 2016), ông Nguyễn Văn L, bà Nguyễn Thị P, ông Nguyễn Văn U.
[3] Quá trình giải quyết vụ án, bà Nguyễn Thị G cho rằng vợ chồng cụ M, cụ B đã cho bà phần đất nêu trên từ năm 1998, sau khi được cho đất bà G đã liên tục quản lý, sử dụng và có sửa chữa căn nhà trên đất. Trong khi đó, ông Nguyễn Văn U không thừa nhận việc cha, mẹ lập di chúc cho bà G toàn bộ đất mà cho rằng năm 1998 cha, mẹ đã cho ông U diện tích đất nêu trên và năm 2000 ông U được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
[4] Theo Tờ di chúc đề ngày 16/5/1998, cụ M và cụ B cho bà G diện tích đất là 15 công tầm lớn. Mặc dù di chúc không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi là 15 công tầm lớn nhưng có nêu tứ cận của khu đất: Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quách Văn M2. Như vậy, phần đất bà G được cha, mẹ cho là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với kênh N và đất của các hộ dân khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận. Sau khi cụ M chết, tại Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004 và Tờ di chúc ngày 09/9/2006 cụ B đã thể hiện ý chí cho bà G toàn bộ diện tích 32.500m2 đất, điều này phù hợp với việc năm 1998 vợ chồng cụ M, cụ B lập di chúc cho bà G đất theo khuôn viên.
[5] Tờ di chúc đề ngày 16/5/1998 do cụ M và cụ B lập có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương; Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, có chữ ký của các con (không có chữ ký của ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương, Tờ di chúc đề ngày 09/09/2006 có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện tại thời điểm lập di chúc và họp gia đình các con của cụ M, cụ B không ai có ý kiến phản đối việc 02 cụ cho bà G toàn bộ phần đất tranh chấp, đều xác nhận do bà G sống chung với cha, mẹ từ nhỏ nên cha, mẹ và anh chị em thống nhất cho bà G quản lý đất để thờ phụng cha, mẹ. Riêng ông U cho rằng ông U được cụ M, cụ B tặng cho đất từ năm 1998 nên ngày 15/11/2000, ông U được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông U không xuất trình được chứng cứ chứng minh có việc cha, mẹ tặng cho đất.
[6] Đối với việc kê khai, đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tranh chấp. Phiếu cung cấp thông tin địa chính số 32/PCCTT ngày 29/12/2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện P thể hiện cụ M đăng ký, kê khai năm 1993 và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đến năm 2006, bà G đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất. Tại Công văn số 1922/UBND ngày 23/10/2018, Ủy ban nhân dân huyện P cho biết hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông U đã thất lạc. Mặt khác, tại Biên bản hòa giải ngày 23/02/2017 của Ủy ban nhân dân xã T, ông U trình bày cụ M ủy quyền cho ông làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay tiền tại Ngân hàng.
[7] Thời điểm năm 1998 ông U không sống chung với cha, mẹ mà sống tại ấp I, xã T; đồng thời quản lý, sử dụng phần đất có diện tích khoảng 06 - 07ha. Bà G, bà M, ông L đều xác định phần đất ông U sử dụng tại ấp I là của cụ M, cụ B cho ông U sử dụng (trong đó có một phần của ông L sang nhượng cho cụ M, cụ B và một phần của người con thứ 6 cho để nuôi cha mẹ). Ông U cho rằng đất ông sử dụng tại ấp I có một phần do tập đoàn cấp, một phần do nhận chuyển nhượng nhưng ông U không xuất trình được chứng cứ chứng minh.
- Nội dung của án lệ:
“[4] Theo Tờ di chúc đề ngày 16/5/1998, cụ M và cụ B cho bà G diện tích đất là 15 công tầm lớn. Mặc dù di chúc không ghi diện tích đất cụ thể, chỉ ghi là 15 công tầm lớn nhưng có nếu tử cận của khu đất: Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quốc Văn M2. Như vậy, phần đất bà G được cha, mẹ cho là đất có khuôn viên, xung quanh tiếp giáp với kênh N và đất của các hộ dân khác, hiện nay không có tranh chấp về tứ cận Sau khi cụ M chết, tại Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004 và Tờ di chúc ngày 09/9/2006 cụ B đã thể hiện ý chí cho bà G toàn bộ diện tích 32.500m2 đất, diễu này phù hợp với việc năm 1998 vợ chồng cụ M, cụ B lập di chúc cho bà G đất theo khuôn viên.
[5] Tờ di chúc đề ngày 16/5/1998 do cụ M và cụ B lập có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương; Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, có chữ ký của các con (không có chữ ký của ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương, Tờ di chúc để ngày 09/09/2006 có xác nhận của chính quyền địa phương thể hiện tại thời điểm lập di chúc và họp gia đình các con của cụ M, cụ B không ai có ý kiến phản đối việc hai cụ cho bà G toàn bộ phần đất tranh chấp, đều xác nhận do bà G sống chung với cha mẹ từ nhỏ nên cha, mẹ và các anh chị em thống nhất cho bà G quản lý đất để thờ phụng cha, mẹ. Riêng ông U cho rằng ông Ụ được cụ M, cụ B tặng cho đất từ năm 1998 nên ngày 15/11/2000, ông U được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng ông U không xuất trình được chứng cứ chứng minh có việc cha mẹ tặng cho đất.
[8] Khi giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào nội dung của di chúc, biên bản họp gia đình, lời khai của các con cụ M, cụ B và quá trình quản lý, sử dụng đất liên tục từ năm 1998 của bà G cũng như việc kê khai, đăng ký đất từ đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà G, công nhận bà G được hưởng thừa kế đối với phần đất là di sản của cụ M, cụ B là có căn cứ.
2. Bình luận Án lệ
2.1. Tính cấp thiết của việc ban hành Án lệ số 72
Thực tiễn xét xử cho thấy, một số vụ án có di chúc do người dân tự lập, không đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật nên dẫn đến việc nội dung di chúc còn thiếu sót, chưa chặt chẽ, đặc biệt là việc mô tả tài sản. Trong đó, việc di chúc chỉ ghi tứ cận mà không có diện tích cụ thể là một ví dụ điển hình. Án lệ số 72 đã đưa ra một giải pháp pháp lý mang tính cụ thể, thống nhất cho các Tòa án khi giải quyết tình huống này, tránh sự tùy nghi và giải quyết không thống nhất; bởi lẽ, mục đích cao nhất của việc giải quyết thừa kế theo di chúc là tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Án lệ số 72 đã thể hiện sự linh hoạt và tính nhân văn của pháp luật khi vẫn bảo vệ được ý chí của người lập di chúc ngay cả khi di chúc không hoàn thiện về mặt hình thức hoặc số liệu. Việc xác định di sản theo tứ cận và diện tích đo đạc thực tế đảm bảo tài sản được phân chia đúng theo mong muốn của người chết, tránh gây thiệt hại cho người được hưởng thừa kế.
Bên cạnh đó, thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất cho thấy, Tòa án các cấp thường xuyên gặp phải các vướng mắc phổ biến như: di chúc do người để lại di sản lập thường không được chặt chẽ, đôi khi chỉ mô tả tài sản theo những cách thức thông thường mà không đảm bảo đầy đủ các thông tin chi tiết như quy định pháp luật dân sự. Một trong những trường hợp điển hình là di chúc chỉ ghi rõ tứ cận (ranh giới, các phía tiếp giáp) của thửa đất được định đoạt nhưng lại không thể hiện diện tích đất cụ thể. Điều này đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc xác định chính xác đối tượng di sản, dẫn đến nguy cơ các bản án, quyết định không thống nhất và tranh chấp kéo dài. Án lệ số 72 ra đời nhằm cung cấp một giải pháp pháp lý cụ thể, thống nhất, đảm bảo việc áp dụng pháp luật được chuẩn xác và công bằng trong những tình huống tương tự. Bởi lẽ, bằng việc cung cấp một nguyên tắc pháp lý giải quyết rõ ràng, Án lệ số 72 giúp giảm thiểu các tranh chấp kéo dài, phức tạp liên quan đến di sản là quyền sử dụng đất, góp phần ổn định quan hệ xã hội và trật tự quản lý đất đai.
2.2. Lý luận về quyền sử dụng đất trong di sản thừa kế
Án lệ số 72/2024/AL được xây dựng dựa trên tình huống di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được định đoạt theo di chúc hợp pháp. Điểm mấu chốt là nội dung di chúc có xác định tứ cận (mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quách Văn M2) nhưng không thể hiện diện tích đất cụ thể. Đồng thời, Án lệ số 72 cũng quy định rõ điều kiện quan trọng là không có tranh chấp về tứ cận này. Giải pháp pháp lý được đưa ra là: “Trường hợp này, Tòa án phải xác định di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được xác định theo diện tích đất đo đạc thực tế theo tứ cận thể hiện trong di chúc”. Điều này có nghĩa là, khi di chúc đã chỉ rõ ranh giới của thửa đất một cách không thể tranh cãi, Tòa án sẽ căn cứ vào ranh giới đó để tiến hành đo đạc lại diện tích thực tế của thửa đất và coi đó là di sản được thừa kế. Qua nghiên cứu tình huống trong Án lệ số 72, nhận thấy Án lệ số 72 đã ban hành dựa trên các cơ sở lý luận như sau:
Thứ nhất, tôn trọng ý chí của người lập di chúc, bởi lẽ, mục đích cốt lõi của việc giải quyết thừa kế theo di chúc là tôn trọng ý chí của người để lại di sản. Mặc dù di chúc có thể chưa hoàn thiện về mặt số liệu, nhưng việc xác định rõ tứ cận cho thấy ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt một thửa đất cụ thể là rõ ràng. Án lệ số 72 giúp hiện thực hóa ý chí đó bằng cách xác định chính xác tài sản dựa trên các yếu tố đã được mô tả.
Thứ hai, tính xác định của tài sản được lập trong di chúc, bởi lẽ theo quy định của pháp luật dân sự, đối tượng của giao dịch dân sự (trong trường hợp này là tài sản trong di chúc) phải có tính xác định hoặc có khả năng xác định. Việc di chúc có tứ cận rõ ràng đã đáp ứng được yêu cầu về khả năng xác định của tài sản. Tứ cận là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhất để nhận diện một thửa đất, giúp phân biệt nó với các thửa đất liền kề khác.
Thứ ba, phù hợp với thực tiễn quản lý công tác đất đai, bởi lẽ, trong thực tế diện tích đất ghi trên giấy tờ có thể có sự sai lệch nhất định so với diện tích đo đạc thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau như sai số kỹ thuật, biến động tự nhiên trong quá trình sử dụng... Việc Án lệ số 72 chấp nhận diện tích đo đạc thực tế theo tứ cận là phù hợp với nguyên tắc thực tế khách quan và đảm bảo tính chính xác về mặt kỹ thuật, công tác quản lý địa chính tại địa phương.
Thứ tư, áp dụng linh hoạt các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, cụ thể, Án lệ này là sự cụ thể hóa và hướng dẫn áp dụng các điều khoản của Bộ luật Dân sự năm 2015 có liên quan đến di chúc và thừa kế, đặc biệt là các điều 624 (di chúc), 630 (di chúc hợp pháp) và 634 (nội dung của di chúc), cụ thể như sau:
Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) về di chúc: Án lệ số 72 đã gián tiếp làm rõ hơn việc áp dụng Điều 624 BLDS 2015 về di chúc. Mặc dù di chúc phải thể hiện ý chí của người lập di chúc, nhưng không đòi hỏi mọi thông tin phải tuyệt đối chính xác về số liệu nếu các yếu tố định danh khác (như tứ cận) đã đủ rõ ràng để xác định tài sản.
Điều 630 BLDS 2015 về di chúc hợp pháp: Việc Án lệ số 72 xác định di chúc trong trường hợp này là di chúc hợp pháp (dù không ghi diện tích cụ thể) cho thấy sự công nhận tính hiệu lực của một di chúc khi nó đáp ứng các điều kiện về hình thức và nội dung cơ bản, và quan trọng là ý chí của người lập di chúc được thể hiện rõ ràng và có thể xác định được đối tượng của di sản.
Điều 634 BLDS 2015 về nội dung di chúc: Án lệ số 72 cung cấp một ví dụ cụ thể về cách xác định tài sản trong di chúc khi thông tin về diện tích không đầy đủ, qua đó làm sáng tỏ hơn việc xác định đối tượng của di sản trong di chúc.
Từ những cơ sở lý luận nêu trên có thể thấy, Án lệ số 72 đã gián tiếp khẳng định một di chúc vẫn có thể được coi là hợp pháp và có hiệu lực đối với phần di sản là quyền sử dụng đất, ngay cả khi không có diện tích cụ thể, miễn là các thông tin khác (tứ cận) đủ để xác định tài sản một cách rõ ràng. Án lệ số 72 là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, giúp các Tòa án giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất một cách hiệu quả, công bằng và thống nhất. Án lệ số 72 không chỉ thể hiện sự linh hoạt trong việc áp dụng pháp luật mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của người thừa kế và tôn trọng ý chí của người đã khuất, góp phần ổn định các quan hệ pháp luật trong xã hội.
3. Một số lưu ý trong thực tiễn xét xử các vụ án dân sự có liên quan đến Án lệ số 72
Án lệ số 72 cung cấp một giải pháp pháp lý rõ ràng cho trường hợp di chúc không thể hiện diện tích đất cụ thể nhưng có tứ cận rõ ràng và không tranh chấp. Tuy nhiên, việc áp dụng cần được thực hiện một cách cẩn trọng, tỉ mỉ, dựa trên việc xác minh đầy đủ các điều kiện mà Án lệ số 72 đưa ra, kết hợp với đánh giá toàn diện các chứng cứ để đảm bảo công lý và tôn trọng ý chí đích thực của người để lại di sản. Do đó, để áp dụng một cách đúng đắn và hiệu quả, các Tòa án cần đặc biệt chú ý đến các khía cạnh như sau:
Thứ nhất, về việc xác định “Di chúc hợp pháp” và “Ý chí của người lập di chúc”: Trước khi áp dụng giải pháp của Án lệ số 72, việc đầu tiên và quan trọng nhất là phải xác định di chúc đó có phải là di chúc hợp pháp[2] hay không và ý chí của người lập di chúc có được thể hiện rõ ràng và không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bất hợp pháp hay không, bởi lẽ như sau:
Một là, về tính tự nguyện, minh mẫn: Tòa án phải xem xét kỹ lưỡng các yếu tố cấu thành di chúc hợp pháp theo BLDS năm 2015, đặc biệt là tại thời điểm lập di chúc, người lập di chúc có minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép hay không[3]. Các lời khai của người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, hoặc các giấy tờ y tế (nếu có) cần được thu thập và đánh giá một cách kỹ lưỡng. Trong vụ án hình thành Án lệ số 72, các bên đều xác nhận cụ M còn minh mẫn khi lập di chúc vào năm 1998.
Hai là, về hình thức của di chúc: Di chúc phải tuân thủ đúng hình thức[4] theo luật định (di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc có công chứng/chứng thực, di chúc miệng trong trường hợp đặc biệt...). Di chúc trong vụ án là di chúc viết tay có chữ ký của các con (trong đó có ông U) và xác nhận của chính quyền địa phương. Điều này củng cố tính hợp pháp của di chúc.
Ba là, về ý chí định đoạt rõ ràng tài sản: Mặc dù thiếu diện tích cụ thể, nhưng ý chí của người lập di chúc phải hướng tới việc định đoạt một thửa đất cụ thể và có thể xác định được. Tứ cận chính là yếu tố mấu chốt để xác định ý chí này. Ví dụ, trong vụ án, di chúc ghi rõ “15 công tầm lớn” và quan trọng hơn là nêu rõ tứ cận: “Mặt tiền giáp Kênh N, Đông (hậu) giáp Nguyễn Văn L1, Bắc giáp Lý Tùng H1, Tây giáp Quách Văn M2”. Đây là cơ sở vững chắc cho việc xác định ý chí của cụ M và cụ B về phần đất cho bà G.
Bốn là, về các chứng cứ khác hỗ trợ xác định ý chí của người lập di chúc: Ngoài di chúc, Tòa án cần thu thập và đánh giá các chứng cứ khác có liên quan để làm rõ hơn ý chí của người lập di chúc. Trong vụ án hình thành Án lệ số 72, có thêm các bằng chứng khác có liên quan đến ý chí của người lập di chúc như: Biên bản họp gia đình ngày 15/6/2004, nơi cụ B thể hiện ý chí cho bà G toàn bộ diện tích đất 32.500m²; Tờ di chúc ngày 09/9/2006 của cụ B tiếp tục cho bà G toàn bộ phần đất; Lời khai của các con khác của cụ M, cụ B đều xác nhận việc cha mẹ có ý định cho bà G đất để thờ phụng do bà sống chung với cha mẹ từ nhỏ; Quá trình quản lý, sử dụng đất liên tục của bà G từ năm 1998; Việc kê khai, đăng ký đất của cụ M năm 1993 và của bà G năm 2006. Tất cả những yếu tố này củng cố nhận định về ý chí đích thực của người lập di chúc, vượt ra ngoài sự thiếu sót về con số diện tích.
Thứ hai, về điều kiện “Không có tranh chấp về tứ cận”, đây là một điều kiện then chốt để áp dụng Án lệ số 72, cụ thể như sau:
Một là, xác minh sự thống nhất về ranh giới: Tòa án phải tiến hành xác minh kỹ lưỡng xem giữa các bên đương sự (đặc biệt là giữa người được hưởng di sản và các đồng thừa kế khác, hoặc người sử dụng đất liền kề giáp ranh) có tồn tại bất kỳ tranh chấp nào về ranh giới (tứ cận) của thửa đất được mô tả trong di chúc hay không. Nếu các bên đều thừa nhận và không có ý kiến phản đối về ranh giới, thì điều kiện này được coi là đã đáp ứng. Trong vụ án, Án lệ số 72 đã nêu rõ “hiện nay không có tranh chấp về tứ cận”.
Hai là, hậu quả xảy ra nếu có tranh chấp tứ cận: Nếu phát sinh tranh chấp về tứ cận, Án lệ số 72 sẽ không thể áp dụng trực tiếp. Khi đó, Tòa án sẽ phải tạm dừng việc giải quyết phân chia di sản để giải quyết tranh chấp ranh giới thửa đất trước (có thể thông qua việc xác minh, đo đạc lại, hoặc thậm chí là khởi kiện độc lập về tranh chấp ranh giới đất). Chỉ khi ranh giới đã được xác định rõ ràng và không còn tranh chấp, Tòa án mới có thể quay lại áp dụng tinh thần của Án lệ số 72 để xác định diện tích di sản.
Thứ ba, về giá trị chứng cứ của giấy tờ do ông U cung cấp. Trong vụ án hình thành Án lệ số 72, ông U có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên mình được cấp năm 2000. Tuy nhiên, Tòa án vẫn quyết định hủy giấy chứng nhận này. Đây là một lưu ý quan trọng, bởi lẽ:
Một là, tính hợp pháp của việc cấp giấy chứng nhận: Tòa án phải xem xét nguồn gốc và quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đó có hợp pháp hay không. Trong vụ án, Ủy ban nhân dân huyện P cho biết hồ sơ cấp giấy chứng nhận cho ông U đã thất lạc, và ông U từng trình bày cụ M ủy quyền cho ông làm Giấy chứng nhận để thế chấp vay tiền, chứ không phải tặng cho đất.
Hai là, đối chiếu với ý chí của người lập di chúc: Ngay cả khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu có các bằng chứng khác (như di chúc hợp pháp, biên bản họp gia đình, lời khai người làm chứng) cho thấy ý chí thực sự của người chủ sở hữu là định đoạt tài sản đó cho người khác, thì Tòa án có thể xem xét hủy bỏ hoặc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Trong vụ án này, ý chí của cụ M và cụ B về việc cho bà G đất đã được xác định là rõ ràng và liên tục.
Ba là, quá trình quản lý, sử dụng đất: Quá trình quản lý, sử dụng đất thực tế cũng là một yếu tố quan trọng. Bà G đã liên tục quản lý và sử dụng đất từ năm 1998 cho đến khi phát sinh tranh chấp, trong khi ông U không ở chung với cha, mẹ từ năm 1998 và có đất riêng. Điều này củng cố thêm căn cứ để Tòa án chấp nhận yêu cầu của bà G.
4. Kết luận
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, Án lệ số 72 có ý nghĩa định hướng quan trọng, giúp các Tòa án địa phương thống nhất cách giải quyết đối với các tranh chấp thừa kế tương tự, đồng thời, góp phần hoàn thiện pháp luật thừa kế theo hướng phù hợp hơn với thực tiễn đời sống và phong tục tập quán của người dân. Việc Tòa án không cứng nhắc trong việc đòi hỏi diện tích cụ thể trong di chúc đã thể hiện tinh thần bảo vệ ý chí thực tế của người để lại di sản và đảm bảo quyền lợi chính đáng của người thừa kế. Đồng thời, Án lệ số 72 cũng góp phần hướng dẫn các cấp Tòa án trong việc giải quyết những tranh chấp tương tự, đặc biệt ở những địa phương mà tập quán lập di chúc còn mang tính truyền thống và thiếu tính pháp lý chặt chẽ. Để phát huy hơn nữa giá trị của Án lệ số 72 và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thừa kế, cần tiếp tục nghiên cứu và ban hành thêm các Án lệ cho các tình huống phức tạp khác có liên quan đến việc xác định di sản thừa kế khi di chúc còn thiếu sót như: Di chúc không rõ tứ cận, tài sản được mô tả chung chung, tài sản có tranh chấp về nguồn gốc...
Tài liệu tham khảo
1. Án lệ số 72/2024/AL được Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao thông qua vào các ngày 20, 21, 23 tháng 02 năm 2024 và được công bố theo Quyết định 119A/QĐ-CA ngày 15/5/2024 của Chánh án TAND tối cao.
2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
3. Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Lưu Thị Thu Hương, Phân chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất khi chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, https://tapchitoaan.vn/phan-chia-di-san-thua-ke-la-quyen-su-dung-dat-khi-chua-duoc-cap-giay-chung-nhan-quyen-su-dung-dat8495.html, truy cập ngày 22/5/2025.
5. Trương Ngọc Oanh, Xác định di sản trong vụ án tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất, https://tapchitoaan.vn/xac-dinh-di-san-trong-vu-an-tranh-chap-chia-thua-ke-quyen-su-dung-dat6571.html, truy cập ngày 22/5/2025.
[1] Phần nội dung của vụ án, nhận định của Tòa án và Quyết định của Tòa án xem cụ thể tại Án lệ số 72/2024/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào các ngày 20, 21, 23 tháng 02 năm 2024 và được công bố theo Quyết định 119A/QĐ-CA ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
[2] Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[3] Khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4] Điều 627 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Việt Nam: Giới thiệu Phó giám đốc Học viện Ngoại giao ứng cử vào vị trí thẩm phán Tòa án Luật biển quốc tế
-
Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm về “Thực hành tiết kiệm”
-
Đại hội Chi bộ các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc Đảng ủy Tòa án nhân dân tối cao lần thứ Nhất, nhiệm kỳ 2025–2027
-
Chi bộ Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025 - 2027
-
Nguyên nhân, điều kiện phạm tội của người chưa thành niên và giải pháp phòng ngừa
Bình luận