Công bố Lệnh của Chủ tịch nước về một số Luật vừa được Quốc hội thông qua

Ngày 11/7/2025, Văn phòng Chủ tịch nước đã họp báo công bố Lệnh của Chủ tịch nước về 18 Luật vừa được Quốc hội Khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ 9.

Ông Phạm Thanh Hà, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước công bố Lệnh của Chủ tịch nước về 18 Luật vừa được Quốc hội khóa XV, Kỳ họp thứ 9 thông qua

1/ Luật Nhà giáo

Giới thiệu về Luật Nhà giáo, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng cho biết, ngày 16/6/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Nhà giáo với 94,35% đại biểu có mặt tán thành. Đây là đạo luật chuyên ngành đầu tiên quy định đầy đủ vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và chính sách dành cho đội ngũ hơn một triệu nhà giáo trên cả nước.

Luật gồm 9 chương, 42 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2026, tập trung vào 5 chính sách lớn: Định danh nhà giáo; tiêu chuẩn và chức danh; sử dụng, đãi ngộ và điều kiện làm việc; đào tạo, bồi dưỡng và tôn vinh; vai trò quản lý nhà nước.

Điểm mới nổi bật là lần đầu tiên, nhà giáo ngoài công lập được thừa nhận là một người hành nghề đặc thù, có chuẩn nghề nghiệp, quyền và nghĩa vụ tương đồng, không chỉ là người lao động theo hợp đồng như trước. Luật khẳng định vai trò then chốt của nhà giáo, đồng thời mở rộng quyền tham gia nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, khởi nghiệp.

Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại buổi họp báo 

Luật quy định lương nhà giáo được xếp cao nhất trong hệ thống thang bảng lương hành chính sự nghiệp. Bổ sung các khoản hỗ trợ vùng khó khăn, thuê nhà, đào tạo, sức khỏe định kỳ, thu hút nhân lực chất lượng cao.

Bên cạnh đó, Luật hợp nhất hai hệ thống tiêu chuẩn (chức danh nghề nghiệp và chuẩn nghề nghiệp) thành một hệ thống chức danh gắn với chuẩn năng lực nghề nghiệp, áp dụng thống nhất cho cả công lập và ngoài công lập.

2/ Luật Hóa chất sửa đổi

Giới thiệu về Luật Hóa chất (sửa đổi), Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài cho biết, ngày 14/6/2025, Quốc hội thông qua Luật với 99,32% đại biểu có mặt tán thành. Luật gồm 7 chương, 48 điều, có hiệu lực từ 1/1/2026, sửa đổi toàn diện Luật Hóa chất năm 2007.

Luật có các nội dung mới liên quan đến xây dựng chính sách phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất thành ngành công nghiệp nền tảng, hiện đại; quản lý hóa chất đồng bộ trong toàn bộ vòng đời; quản lý hóa chất nguy hiểm trong sản phẩm; nâng cao hiệu quả đảm bảo an toàn hóa chất...

Luật Hóa chất được xây dựng theo hướng tăng cường phân cấp, phân quyền; đơn giản hóa, cắt giảm thủ tục hành chính; áp dụng tối đa công nghệ thông tin nhằm cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi. 

Cùng với đó, Luật Hóa chất đã bổ sung hiệu lực thi hành và quy định chuyển tiếp phù hợp để không tạo khoảng trống trong quản lý và giảm thiểu khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. 

Luật Hóa chất là bước cụ thể hóa quan trọng, kịp thời thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển bền vững ngành công nghiệp hóa chất; đồng thời góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ con người, cơ sở vật chất, tài sản, môi trường.

3/ Luật Việc làm

Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Mạnh Khương cho biết, ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Việc làm số 74/2025/QH15, gồm 8 chương, 55 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2026.

Luật đã thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về hoàn thiện thể chế, tháo gỡ "điểm nghẽn của điểm nghẽn"; đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, phù hợp của hệ thống pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường lao động, hướng tới bảo đảm việc làm bền vững cho tất cả lao động.

Luật Việc làm năm 2025 quy định chính sách hỗ trợ tạo việc làm, đăng ký lao động, hệ thống thông tin thị trường lao động, phát triển kỹ năng nghề, dịch vụ việc làm, bảo hiểm thất nghiệp, quản lý nhà nước về việc làm và áp dụng đối với tất cả người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc (bao gồm cả người lao động có quan hệ lao động và người lao động không có quan hệ lao động, người thất nghiệp). 

Luật Việc làm năm 2025 đã kế thừa các quy định đã được thực hiện có hiệu quả từ Luật Việc làm năm 2013, sửa đổi các quy định không còn phù hợp, trọng tâm là bổ sung các quy định nhằm thể chế hóa 4 Nghị quyết đột phá - "bộ tứ trụ cột" đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới..

4/ Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt gồm 4 chương, 11 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026. So với Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2025 có nhiều điểm mới.

Về đối tượng chịu thuế, ngoài những hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt kế thừa tại Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đã bổ sung mặt hàng nước giải khát theo tiêu chuẩn quốc gia có hàm lượng đường trên 5g/100 ml vào đối tượng chịu thuế; quy định điều hòa nhiệt độ công suất trên 24.000 đến 90.000 BTU (thay cho điều hòa nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống) thuộc đối tượng chịu thuế; sửa đổi, bổ sung một số mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như thuốc lá, rượu, bia... để đồng bộ với pháp luật chuyên ngành.

Ngoài những nội dung về đối tượng không chịu thuế kế thừa tại Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đã sửa đổi, bổ sung đối tượng không chịu thuế đối với hàng hóa do tổ chức, cá nhân sản xuất, gia công, thuê gia công trực tiếp xuất khẩu ra nước ngoài hoặc bán, ủy thác cho tổ chức, cá nhân kinh doanh khác để xuất khẩu ra nước ngoài; sửa đổi, bổ sung quy định đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với: "Máy bay, trực thăng, tàu lượn, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hóa, hành khách, khách du lịch và máy bay, trực thang, tàu lượn sử dụng cho các mục đích an ninh, quốc phòng, cứu thương, cứu hộ, cứu nạn, chữa cháy, huấn luyện đào tạo phi công, quay phim, chụp ảnh, đo đạc bản đồ, sản xuất nông nghiệp"; bổ sung đối tượng "xe ô tô chở người, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ không đăng ký lưu hành và chỉ chạy trong phạm vi khu vui chơi, giải trí, thể thao, di tích lịch sử, bệnh viện, trường học và xe ô tô chuyên dùng khác"....

5/ Luật Quảng cáo sửa đổi 

Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho biết, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quảng cáo gồm 3 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2026; được xây dựng trên tinh thần đổi mới tư duy trong công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Quốc hội giao Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đối với những vấn đề mới, biến động thường xuyên, chưa ổn định; hạn chế phát sinh thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; đổi mới tư duy trong quan điểm, cách thức quản lý quảng cáo, nhất là quảng cáo trên mạng, quảng cáo xuyên biên giới.

Các Phóng viên tham gia buổi họp báo 

Các quy định mới quan trọng, mang tính đột phá trong Luật là đã bổ sung quyền và nghĩa vụ của người chuyển tải sản phẩm quảng cáo; về từ ngữ tiếng Việt trong sản phẩm quảg cáo; yêu cầu đối với nội dung quảng cáo và điều kiện quảng cáo; quảng cáo trên báo nói, báo hình, trên mạng, ngoài trời...

6/ Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 01/8/2025.

Luật gồm 8 chương, 59 điều, kế thừa các quy định còn phù hợp và sửa đổi, bổ sung nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, kiểm soát quyền lực, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Về những nội dung đổi mới, phạm vi điều chỉnh của Luật này quy định việc đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp; không có cụm từ "sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh" và "giám sát việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp" như Luật số 69/2014/QH13, nội hàm "quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp" đã bao gồm nội dung về sử dụng, giám sát vốn nhà nước và đã kế thừa có chọn lọc các quy định của Luật số 69/2014/QH13.

Luật xác định rõ đối tượng áp dụng, trong đó bao gồm doanh nghiệp nhà nước theo quy định của Luật Doanh nghiệp; tổ chức tín dụng do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, trừ Ngân hàng chính sách (theo đó không chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ như Luật số 69/2014/QH13). 

Đồng thời, tại điều khoản thi hành có quy định tổ chức chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên được áp dụng Luật này để thực hiện việc quản lý và đầu tư vốn của tổ chức tại doanh nghiệp nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đầu tư, quản lý vốn của các tổ chức này...

7/ Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, với 4 chương, 20 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/2025, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp được ban hành nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương, định hướng đã được xác định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước về cải cách hệ thống chính sách thuế nói chung, chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp nói riêng; rà soát, xác định rõ những nội dung, phạm vi vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đề khắc phục khó khăn, vướng mắc phát sinh thời gian qua; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp với quy định của pháp luật có liên quan, nhất là pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp, khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, công nghệ số...

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận phát biểu tại buổi họp báo

Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025. So với Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2025 có các điểm mới liên quan đến người nộp thuế và thu nhập chịu thuế; thua nhập được miễn thuế; kỳ tính thuế, xác định thu nhập tính thuế và phương pháp tính thuế; các khoản chi được và không được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế suất thu nhập doanh nghiệp; ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp...

8/ Luật sửa đổi Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả

Thứ trưởng Bộ Công Thương Trương Thanh Hoài cho biết, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả gồm 2 điều, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026.

Luật đã bám sát 4 chính sách về: Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; quản lý, phát triển đối với dịch vụ tư vấn năng lượng, kiểm toán năng lượng, đào tạo nhân lực trong lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; quy định về chính sách ưu đãi, công cụ hỗ trợ tài chính cho lĩnh vực sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; chuyển đổi thị trường và quản lý hiệu suất phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng....

9/ Luật Ngân sách Nhà nước

Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, Luật có 7 chương, 79 điều, có hiệu lực từ năm ngân sách 2026.

Luật đã thể chế hóa các chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước về ngân sách nhà nước; đổi mới cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi, đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, tăng tính chủ động của ngân sách địa phương; phân định trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương, gắn với quyền và trách nhiệm của từng cấp theo phương châm, cấp nào thực hiện hiệu quả, kịp thời nhất thì giao cho cấp đó thực hiện; địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Tăng cường và nâng cao hiệu quả giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp; cắt giảm, đơn giản quy trình, thủ tục trong quy trình ngân sách nhà nước; thúc đẩy cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Luật Ngân sách nhà nước số 89/2025/QH15 có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2026, Luật Ngân sách nhà nước số 83/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 59/2020/QH14 và Luật số 56/2024/QH15 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành. 3 nhóm nội dung, được thực hiện từ ngày 1/7/2025 gồm: Việc phân cấp nhiệm vụ chi giữa ngân sách cấp tỉnh với ngân sách cấp xã đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; việc tổng hợp, lập dự toán ngân sách nhà nước, tổ chức chi ngân sách nhà nước đối với lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; tạm cấp ngân sách.

10. Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc

Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã giới thiệu Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Luật Tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc được Quốc hội thông qua ngày 26/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, việc ban hành Luật này nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, quy định của Hiến pháp, chính sách và pháp luật của Nhà nước, bảo đảm đồng bộ trong hệ thống pháp luật, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; tạo hành lang pháp lý đầy đủ, vững chắc, lâu dài, ổn định cho việc triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc; góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Luật này gồm 05 chương, 27 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026.

11. Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân

Ngày 26/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân số 91/2025/QH15 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026. Luật số 91/2025/QH15 thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; tạo sự đồng bộ, thống nhất, xuyên suốt của hệ thống pháp luật, phục vụ cuộc cách mạng đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia theo tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị; góp phần bảo đảm an ninh con người, chủ quyền dữ liệu trong kỷ nguyên mới của dân tộc.

Mục đích của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân nhằm hoàn thiện, thống nhất hệ thống pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, tạo hành lang pháp lý cho công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân, nâng cao năng lực bảo vệ dữ liệu cá nhân cho các tổ chức, cá nhân trong nước tiếp cận trình độ quốc tế, khu vực; đẩy mạnh sử dụng dữ liệu cá nhân đúng pháp luật phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.

Quan điểm của Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân được xác định, thứ nhất, cụ thể hóa tinh thần của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ dữ liệu cá nhân, bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Xác định dữ liệu cá nhân là nguồn tài nguyên quan trọng cần được bảo vệ, sử dụng phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo vệ Tổ quốc.

Thứ hai, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh; thúc đẩy ứng dụng, phát huy tối đa các thành tựu khoa học và công nghệ; xác định lộ trình phù hợp thực hiện công tác bảo vệ dữ liệu cá nhân phù hợp với thực tiễn nước ta hiện nay.

Thứ ba, phù hợp với các quy định của pháp luật, rà soát, tạo nền tảng để xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ về bảo vệ dữ liệu cá nhân; hài hòa với pháp luật quốc tế, bảo đảm sự phù hợp với các quy định, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc là thành viên.

Luật gồm 05 Chương, 39 Điều, quy định về dữ liệu cá nhân, bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; trong đó:

Chương I gồm 08 điều, quy định các vấn đề chung, như: phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền và nghĩa vụ của chủ thể dữ liệu cá nhân, hành vi bị nghiêm cấm, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Chương II gồm 24 điều, quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình xử lý dữ liệu và bảo vệ dữ liệu cá nhân trong một số hoạt động, lĩnh vực cụ thể.

Chương III gồm 03 điều, quy định về lực lượng bảo vệ dữ liệu cá nhân, điều đảm bảo bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Chương IV gồm 02 điều, quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân về bảo vệ dữ liệu cá nhân.

Chương V gồm 02 điều, quy định hiệu lực thi hành, điều khoản chuyển tiếp.

12. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng

Ngày 27/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các Tổ chức tín dụng (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD). Luật các TCTD luật hóa một số quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42/2017/QH14) nhằm tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, kịp thời xử lý các vướng mắc, khó khăn trong công tác xử lý nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm (TSBD) của khoản nợ xấu, góp phần khơi thông nguồn vốn, gia tăng khả năng tiếp cận tín dụng của người dân và doanh nghiệp; cũng như nâng cao mức độ an toàn, lành mạnh của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD).

Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD được ban hành nhằm điều chỉnh thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt của NHNN đối với khoản vay có lãi suất 0%/năm, khoản cho vay đặc biệt không có TSBD từ Thủ tướng Chính phủ thành NHNN nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, giúp giảm bớt khâu trung gian trong quá trình triển khai thực hiện việc quyết định cho vay đặc biệt, rút ngắn thời gian xử lý, bảo đảm việc cho vay đặc biệt của NHNN được tổ chức, thực hiện kịp thời, góp phần giữ vững an ninh, an toàn hệ thống các TCTD; đồng thời, việc chuyển thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt của NHNN có lãi suất 0%/năm, không có TSBD tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD cũng nhằm triệt để phân cấp, phân quyền trong việc quyết định cho vay đặc biệt, đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Toàn cảnh buổi họp báo

Quan điểm của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD được xây dựng và ban hành trên tinh thần bám sát quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cũng như thông lệ quốc tế; đảm bảo mục tiêu hội nhập quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển. Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD tập trung luật hóa các quy định tại Nghị quyết số 42/2017/QH14 đã phát huy tốt hiệu quả trong giai đoạn thí điểm (từ ngày 15/8/2017 đến ngày 31/12/2023).

Ngoài ra, việc sửa đổi thẩm quyền quyết định việc cho vay đặc biệt đảm bảo thực hiện kịp thời, chặt chẽ, hiệu quả, khả thi, góp phần giữ vững an ninh, an toàn hệ thống các TCTD, không để xảy ra tiêu cực, thất thoát, lãng phí và vi phạm pháp luật.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD gồm 3 Điều, trong đó, Điều 1 gồm 5 khoản, tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD 2024 và bãi bỏ một số cụm từ, bãi bỏ một số Điều khoản của Luật các TCTD 2024 nhằm đảm bảo sự áp dụng thống nhất; Điều 2 quy định điều khoản thi hành và Điều 3 quy định chuyển tiếp đối với khoản vay đặc biệt của TCTD của NHNN đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành cũng như điều khoản chuyển tiếp đối với các TSBD của khoản nợ xấu đã bị kê biên, xử lý theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự trước ngày Luật này có hiệu lực. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2025

13. Luật Công nghiệp công nghệ số

Ngày 14/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Công nghiệp công nghệ số và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2026. Luật Công nghiệp công nghệ số thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng về phát triển công nghiệp công nghệ số, thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025, số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 và số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị.

Mục tiêu của việc xây dựng Luật Công nghiệp công nghệ số nhằm hình thành hành lang pháp lý chuyên ngành, bảo đảm có chính sách ưu đãi đủ mạnh, vượt trội phát triển ngành công nghiệp công nghệ số – một trong những lĩnh vực công nghiệp đặc thù, nền tảng; đưa Việt Nam trở thành một trong các trung tâm công nghiệp công nghệ số của khu vực và thế giới; phát triển một số doanh nghiệp công nghệ số chiến lược và một số lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có thế mạnh như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Luật được xây dựng theo quan điểm, thứ nhất, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về phát triển ngành công nghiệp công nghệ số, điển hình như các Nghị quyết của Bộ Chính trị số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024, số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025, số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 và số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025.

Thứ hai, hoàn thiện, khắc phục một số tồn tại, vướng mắc trong quy định và tổ chức thực thi các quy định pháp luật về công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ công nghệ thông tin.

Thứ ba, kế thừa có chọn lọc các quy định còn phù hợp của Luật Công nghệ thông tin và các văn bản hướng dẫn thi hành về công nghiệp công nghệ thông tin, dịch vụ công nghệ thông tin; thống nhất, đồng bộ với pháp luật hiện hành, đặc biệt là các luật về thuế, đầu tư, tài chính... để có chính sách đủ mạnh, vượt trội cho ngành công nghiệp công nghệ số.

Thứ bốn, tham khảo có chọn lọc pháp luật và kinh nghiệm quốc tế để vận dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam, đặc biệt là đối với các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo, tài sản số…

Luật có bố cục gồm 6 Chương, 51 Điều, cụ thể:

Chương I. Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 12);

Chương II. Phát triển công nghiệp công nghệ số (từ Điều 13 đến Điều 35);

Chương III. Công nghiệp bán dẫn (từ Điều 36 đến Điều 40);

Chương IV. Trí tuệ nhân tạo (từ Điều 41 đến Điều 45);

Chương V. Tài sản số (từ Điều 46 đến Điều 48);

Chương VI. Điều khoản thi hành (từ Điều 49 đến Điều 51).

Việt Nam trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành một bộ luật riêng về lĩnh vực công nghiệp công nghệ số. Lần đầu tiên, các khái niệm mới được như công nghệ số, công nghiệp công nghệ số, công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, tài sản số… được định danh trong một văn bản Luật. Luật bao gồm đầy đủ quy định, ưu đãi, hỗ trợ cần thiết để phát triển ngành công nghiệp công nghệ số

14. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Ngày 27/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội Khóa XV đã thông qua Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo số 93/2025/QH15, có hiệu lực kể từ ngày 01/10/2025 (một số điều có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2025). Luật gồm 7 Chương, 73 Điều tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, đặc biệt là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Mục tiêu nhằm tạo hành lang pháp lý để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng góp vào nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và sự phát triển của nhân loại.

Với quan điểm xây dựng Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo được xác định gồm, thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là đột phá quan trọng hàng đầu, là động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức phát triển quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu, đưa đất nước phát triển bứt phá, giàu mạnh trong kỷ nguyên mới.

Thứ hai, kế thừa các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013 còn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, phù hợp với thực tiễn phát triển khoa học và công nghệ của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Thứ ba, mở rộng phạm vi, đối tượng điều chỉnh của Luật sang khu vực ngoài công lập để thúc đẩy nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, hướng tới ứng dụng các kết quả nghiên cứu và phát triển phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; thu hút tổ chức, cá nhân nhất là khối doanh nghiệp tham gia thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo.

15. Luật Đường sắt

Ngày 27/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Đường sắt số 95/2025/QH15 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2026 (riêng quy định tại khoản 1, điểm b khoản 3 Điều 56 và Mục 2, Mục 3 Chương II có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025).

Việc ban hành Luật Đường sắt là để thể chế hóa các chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, đặc biệt là “bộ tứ chiến lược” (Nghị quyết 57, Nghị quyết 59, Nghị quyết 66 và Nghị quyết 68) nhằm phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, công nghiệp và vận tải đường sắt đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đồng thời giải quyết các vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn đầu tư phát triển, kinh doanh vận tải đường sắt thời gian vừa qua. Theo đó, Luật Đường sắt 2025 đã cơ bản tháo gỡ các “điểm nghẽn”, vướng mắc.

Luật Đường sắt được xây dựng trên 05 quan điểm chỉ đạo:

Tiếp tục thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về hoàn thiện thể chế, xây dựng chính sách phát triển đường sắt;

Đảm bảo sự tương thích với các điều ước quốc tế về đường sắt mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế tốt;

Hoàn thiện các quy định trên cơ sở kế thừa những quy định còn phù hợp của Luật Đường sắt 2017 và sửa đổi, bổ sung các nội dung không phù hợp, đồng thời tăng cường phân quyền trong hoạt động đường sắt;

Huy động tối đa nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt;

Ứng dụng và phát triển khoa học, công nghệ hiện đại trong lĩnh vực đường sắt.

16. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa

Ngày 18/6/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã chính thức thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa số 78/2025/QH15 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026. Luật số 78/2025/QH15 nhằm thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn của Đảng tại các Nghị quyết của Bộ Chính trị như Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển Khoa học, Công nghệ, Đổi mới sáng tạo và Chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành PL đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và chuyển đổi số quốc gia.

Mục tiêu của Luật là thể chế hóa kịp thời các chủ trương lớn của Đảng, nhất là về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm an toàn, sức khỏe, môi trường và lợi ích quốc gia. Hoàn thiện khung pháp lý thống nhất, khả thi, chuyển từ quản lý hành chính sang quản trị rủi ro dựa trên dữ liệu và công nghệ số. Tạo thuận lợi thương mại, giảm chi phí tuân thủ, nâng cao năng lực cạnh tranh, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nội luật hóa các cam kết quốc tế, bảo đảm tương thích với các FTA thế hệ mới, giảm rào cản kỹ thuật trong thương mại.

Quan điểm của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được xây dựng dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

Một là, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong xây dựng pháp luật, nhất quán với các Nghị quyết số 57-NQ/TW, 59-NQ/TW, 66-NQ/TW, 68-NQ/TW, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực then chốt.

Hai là, tuân thủ Hiến pháp năm 2013, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, quyền tiêu dùng và quyền tiếp cận thông tin; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong quản lý chất lượng phù hợp với phát triển bền vững.

Ba là, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ; đổi mới phương thức quản lý trên nền tảng dữ liệu, công nghệ và quản trị rủi ro.

Bốn là, bảo đảm đồng bộ, thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật; khắc phục chồng chéo, mâu thuẫn, đẩy mạnh cải cách hành chính và hậu kiểm.

Năm là, chủ động nội luật hóa các cam kết quốc tế, bảo đảm phù hợp với các FTA thế hệ mới, thúc Luật có bố cục gồm 03 Điều, trong đó: Điều 1 sửa đổi, bổ sung 34 Điều; bổ sung 10 Điều; bãi bỏ 14 Điều, 03 khoản của 2 Điều, tên của 1 Mục, 3 Mục của 2 Chương, 01 Chương của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Điều 2 về hiệu lực thi hành; Điều 3 về điều khoản chuyển tiếp.

17. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật

Ngày 14/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (TC&QCKT) số 70/2025/QH15 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2026.

Luật số 70/2025/QH15 đã thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng được thể hiện tại Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 30/7/2024 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng quốc gia đến năm 2030 và những năm tiếp theo, Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới và Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Mục tiêu của việc sửa đổi, bổ sung Luật TC&QCKT nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, đồng thời, tiếp tục nội luật hóa các cam kết quốc tế, đảm bảo sự tương thích giữa quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp với các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết.

Với quan điểm được xác định, thứ nhất, thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để thu hút, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh, đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới và tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia.

Thứ hai, xây dựng khung pháp lý, tiếp tục hoàn thiện, khắc phục một số tồn tại vướng mắc trong quy trình xây dựng, công bố, ban hành, áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật nhằm triển khai hoạt động quản lý nhà nước về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp, đảm bảo sự thống nhất, khả thi, đồng bộ trong việc áp dụng pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp, góp phần tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh lành mạnh, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.

Thứ ba, nội luật hóa các quy định tại các cam kết quốc tế của Việt Nam trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết trong lĩnh vực tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và đánh giá sự phù hợp.

Luật gồm 03 Điều, trong đó Điều 1 sửa đổi, bổ sung 40 Điều của Luật TC&QCKT số 68/2006/QH11; Điều 2 và Điều 3 về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp đối với việc xây dựng, công bố, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật.

18. Luật Năng lượng nguyên tử

Việc ban hành Luật Năng lượng nguyên tử số 94/2025/QH15 (sau đây gọi tắt là Luật Năng lượng nguyên tử năm 2025) là yêu cầu cấp thiết nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và nội dung không còn phù hợp của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008 sau gần 17 năm thi hành. Trong bối cảnh mới, nhiều chủ trương, chính sách quan trọng của Đảng, Nhà nước và Quốc hội liên quan đến phát triển năng lượng nguyên tử cần được thể chế hóa thành quy định pháp luật. Thời gian qua, một số luật có liên quan đã được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo với một số quy định của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008. Bên cạnh đó, việc sửa đổi luật cũng nhằm tiếp thu và nội luật hóa các yêu cầu, khuyến nghị mới của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), đặc biệt là bảo đảm an toàn, an ninh và thanh sát hạt nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Mục tiêu của Luật là tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về năng lượng nguyên tử, thống nhất với các luật có liên quan và hệ thống pháp luật Việt Nam; đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển và quản lý; xây dựng cơ sở pháp lý bảo đảm sự đầy đủ, toàn diện trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về năng lượng nguyên tử; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân; phát triển bền vững ứng dụng năng lượng nguyên tử; thực hiện cam kết, nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam; tăng cường hợp tác quốc tế; năng lượng nguyên tử góp phần tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong kỷ nguyên mới.

Luật được xây dựng trên quan điểm, thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, trực tiếp của Đảng trong công tác xây dựng pháp luật; thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về năng lượng nguyên tử.

Thứ hai, kế thừa, phát triển những quy định hợp lý, có tính nguyên tắc của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008; khắc phục triệt để những bất cập, chồng chéo của quy định gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật về năng lượng nguyên tử thời gian qua.

Thứ ba, các quy định của Luật phải rõ ràng, có tính khả thi, dài hạn, có tính dự báo đầy đủ và giúp kiến tạo hành lang pháp lý về an toàn bức xạ, hạt nhân, an ninh và thanh sát hạt nhân bảo đảm cho sự phát triển bền vững của ứng dụng của năng lượng nguyên tử, đặc biệt là phát triển điện hạt nhân tại Việt Nam.

Thứ bốn, tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ luật pháp quốc tế; sự hài hòa, tính tương thích, nội luật hóa đầy đủ, kịp thời cam kết, nghĩa vụ tại các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Thứ năm, tuân thủ nguyên tắc luật chỉ quy định những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội.

Bố cục của Luật Năng lượng nguyên tử năm 2025 (thay thế cho Luật Năng lượng nguyên tử năm 2008) được xây dựng bám sát 04 chính sách đã được Quốc hội, Chính phủ thông qua, cụ thể:

Chính sách 1: Thúc đẩy phát triển và xã hội hóa ứng dụng năng lượng nguyên tử.

Chính sách 2: Bảo đảm an toàn bức xạ, an toàn và an ninh hạt nhân, phân cấp trong công tác quản lý nhà nước.

Chính sách 3: Tạo thuận lợi cho hoạt động thanh sát hạt nhân.

Chính sách 4: Quản lý chất thải phóng xạ, nguồn phóng xạ đã qua sử dụng và nhiên liệu hạt nhân đã qua sử dụng; ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân; trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại hạt nhân.

Luật Năng lượng nguyên tử năm 2025 đã được thông qua tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV ngày 27/6/2025, Luật gồm 8 chương, 73 điều, (giảm 20 điều tương ứng với hơn 20% số điều so với Luật năm 2008) quy định về phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử; an toàn bức xạ, bảo vệ bức xạ, an toàn hạt nhân và an ninh hạt nhân; nhà máy điện hạt nhân, lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu; ứng phó sự cố bức xạ, sự cố hạt nhân, bồi thường thiệt hại bức xạ, thiệt hại hạt nhân; thanh sát hạt nhân và quản lý nhà nước trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.

TRANG ANH