Góp ý hoàn thiện pháp luật về tội phạm chống loài người bằng quy định của luật hình sự quốc tế

Qua thời gian nghiên cứu về luật hình sự quốc tế trong và ngoài nước, tác giả nhận thấy hạn chế trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội phạm chống loài người và mong muốn đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó, đồng thời góp phần vào công tác xây dựng pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp lý về tội phạm quốc tế nói chung, tội phạm chống loài người nói riêng.

Đặt vấn đề

Hòa bình là nguyện vọng của loài người. Ngày nay, đấu tranh cho hòa bình là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của mỗi dân tộc1. Tuy nhiên, tình hình quan hệ quốc tế trong những năm gần đây diễn ra ngày càng phức tạp, ẩn chứa nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến hòa bình, an ninh của quốc gia và thế giới, đặc biệt là tình hình biển Đông, cuộc chiến giữa Nga - Ukraine. Khắc phục những khuyết điểm trong pháp luật về tội phạm chống loài người sẽ là một biện pháp giúp Việt Nam tự bảo vệ trước tội ác quốc tế nghiêm trọng này.

Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp trong đó yêu cầu tiếp tục hoàn thiện cơ chế để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, thực chất, hiệu quả, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và pháp luật quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa. Chủ động tham gia, đóng góp vào việc xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự quốc tế, khu vực. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế2.

Các tội phạm quốc tế trong Bộ luật Hình sự (BLHS) Việt Nam năm 2015 được quy định trong Chương XXVI Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. Những tội phạm này thực tế đã xuất hiện từ BLHS năm 1985. Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, các tội phạm này hầu như không thay đổi, ngoại trừ việc bổ sung khung hình phạt “Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên” của BLHS hiện hành. So với các loại tội phạm khác, những tội phạm quốc tế ít được quan tâm hơn bởi những nhà làm luật. Có thể lý giải việc này bởi các tội phạm như tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược, tội chống loài người, tội phạm chiến tranh là những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tính chất nguy hiểm là rất cao so với những tội phạm thông thường. Vì vậy, tỉ lệ tội phạm này xảy ra là không hề cao, trừ khi có những biến động ảnh hưởng đến hòa bình, an ninh quốc gia. Hơn nữa, từ năm 1985 đến nay, đất nước ta sống trong hòa bình và bước vào giai đoạn phát triển đất nước, hầu như không trải qua các cuộc xung đột vũ trang, gây hấn bởi các thế lực thù địch. Vì các lý do trên, các quy định về tội phạm quốc tế trong luật hình sự Việt Nam hầu như không được áp dụng. Từ việc không có thực tiễn xét xử, những vấn đề liên quan đến sửa đổi, bổ sung các quy định này sẽ hiếm khi được đặt ra mặc dù chúng đã trở nên cũ kỹ, thiếu sót và không còn phù hợp so với luật pháp quốc tế.

Sự ra đời của Quy chế Rome của Tòa án Hình sự Quốc tế năm 19983 (gọi tắt là Quy chế Rome) là một kết quả của quá trình nghiên cứu, đàm phán, tranh luận lâu dài không chỉ của các quốc gia, mà còn của nhiều cá nhân như các học giả, chính trị gia, luật sư, nhà hoạt động xã hội, nhân quyền. Ngoài ra, Quy chế Rome cũng được đúc kết từ kinh nghiệm xét xử lâu dài của các Tòa án hình sự quốc tế chuyên biệt4 đi trước như Tòa án Quân sự quốc tế ở Nuremberg năm 1945, Tòa án Hình sự Quốc tế Nam Tư cũ năm 1993, Tòa án Hình sự Quốc tế Rwanda năm 1994, … Do đó, quy định về các tội phạm quốc tế, đặc biệt là tội phạm chống loài người trong Quy chế Rome đã đạt được mức độ hoàn thiện nhất định. Mặc dù không gia nhập Quy chế Rome, việc so sánh quy định về tội phạm chống loài người giữa BLHS Việt Nam và Quy chế Rome vẫn là vấn đề cần thiết để nghiên cứu, đóng góp cho lĩnh vực luật quốc tế tại Việt Nam.

Những quy định trong bài viết này, ngoài BLHS hiện hành, được trích dẫn trực tiếp từ các nguồn văn bản pháp lý được công nhận rộng rãi, đặc biệt là Quy chế Rome.

1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về tội phạm chống loài người

Tội chống loài người được quy định tại Điều 422 BLHS năm 2015 như sau:

Điều 422. Tội chống loài người

1. Người nào trong thời bình hay trong chiến tranh mà thực hiện hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

2. Phạm tội trong trường hợp do bị ép buộc hoặc do thi hành mệnh lệnh của cấp trên, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm”.

Về khách thể, tội phạm này xâm phạm đến nhiều nhóm quan hệ bao gồm dân cư của một khu vực, nguồn sống, cuộc sống văn hóa, tinh thần của một nước, nền tảng của một xã hội, sinh vật, môi trường tự nhiên.

Về mặt khách quan, các hành vi chống loài người gồm có tiêu diệt hàng loạt dân cư, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội, các hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên.

Về chủ thể, bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự đều cũng có thể là chủ thể tội phạm này. Thông thường, họ là những người có chức vụ cao trong bộ máy nhà nước của một quốc gia như nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ, người đứng đầu bộ quốc phòng.

Về mặt chủ quan, tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, có thể thấy trước khả năng xảy ra hậu quả nhưng vẫn thực hiện. Ở hành vi đảo lộn nền tảng của một xã hội yêu cầu mục đích phá hoại xã hội đó.

2. Tội phạm chống loài người tại Quy chế Rome của Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998

Tại Điều 7 Quy chế Rome, tội phạm chống loài người được quy định như sau:

“1. Trong Quy chế này, “tội phạm chống loài người” là một trong các hành vi sau được thực hiện như một phần của sự tấn công trên diện rộng hoặc có hệ thống nhắm trực tiếp vào bất kỳ một cộng đồng dân thường nào, với nhận thức về sự tấn công đó:

(a) Giết người;

(b) Hủy diệt;

(c) Nô lệ hóa;

(d) Trục xuất hoặc cưỡng ép di dân;

(e) Giam giữ hoặc có hình thức khác tước đoạt tự do thân thể một cách nghiêm trọng trái với các quy tắc cơ bản của luật pháp quốc tế;

(f) Tra tấn;

(g) Hiếp dâm, bắt làm nô lệ tình dục, cưỡng ép mại dâm, cưỡng bức mang thai, cưỡng ép triệt sản hoặc bất kỳ hình thức bạo lực tình dục nào khác có tính chất nghiêm trọng tương tự;

(h) Đàn áp bất kỳ nhóm hoặc tập thể người nào có thể xác định được vì lý do chính trị, chủng tộc, dân tộc, sắc tộc, văn hóa, tôn giáo, giới tính như được định nghĩa tại khoản 3, hoặc những lý do khác được thừa nhận rộng rãi là bị cấm theo luật quốc tế, liên quan đến bất kỳ hành vi nào nêu tại điều này hoặc bất kỳ tội phạm nào thuộc quyền tài phán của Tòa án;

(i) Cưỡng bức mất tích;

(j) Phân biệt chủng tộc;

(k) Các hành vi vô nhân đạo khác có tính chất tương tự với ý định gây nhiều đau đớn hoặc tổn thương nghiêm trọng cho thân thể hoặc sức khỏe về mặt tinh thần hay thể chất.

…”.

Đối với mỗi hành vi cơ bản, Tòa án Hình sự quốc tế (ICC) quy định rằng hành vi đó phải được thực hiện như một phần của một cuộc tấn công trên diện rộng hoặc có hệ thống nhằm vào dân thường. Hơn nữa, thủ phạm phải biết hành vi đó là một phần hoặc có chủ đích là một phần của một cuộc tấn công trên diện rộng hoặc có hệ thống nhằm vào dân thường. Dựa vào những điều trên, Hội đồng tiền xét xử ICC rút ra năm yếu tố chung của tội ác chống loài người như sau: (i) Là một cuộc tấn công nhằm vào bất kỳ cộng đồng dân thường nào; (ii) Một chính sách của Nhà nước hoặc của tổ chức; (iii) Tính chất trên diện rộng hoặc có hệ thống của cuộc tấn công; (iv) Mối liên hệ giữa hành vi cá nhân và cuộc tấn công; (v) Hiểu biết về cuộc tấn công5.

Khi phân tích 04 yếu tố cấu thành tội phạm, tội phạm chống loài người bao gồm:

- Về khách thể: Điều 7 của Quy chế Rome nêu rõ các hành vi phải “nhắm trực tiếp vào bất kỳ cộng đồng dân thường nào” để cấu thành tội phạm chống loài người. Về cơ bản, có thể hiểu “dân thường” bao gồm những người không hoặc không còn tham gia vào chiến sự. Trong thời bình - thời điểm không có lực lượng chiến sự, thuật ngữ dân thường cần được hiểu rộng hơn bao gồm cả quân nhân và cảnh sát.

- Về mặt khách quan: Một yếu tố bắt buộc của tội phạm chống loài người là hành vi (trong số các hành vi được liệt kê tại Điều 7) được thực hiện như một phần của sự tấn công trên diện rộng (ý nghĩa định lượng đề cập đến quy mô của cuộc tấn công hoặc số lượng các nạn nhân) hoặc có hệ thống (tuân theo một kế hoạch hoặc chính sách đã định trước).

- Về chủ thể: Điều kiện thỏa mãn chủ thể của tội phạm chống loài người là điều kiện chung được quy định trong Quy chế Rome6, họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ 18 tuổi trở lên.

- Về mặt chủ quan: Tội phạm chống loài người được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích không phải là yếu tố bắt buộc trong cấu thành tội phạm.

3. Một số hạn chế và đề xuất giải pháp

Sự khác biệt trong định nghĩa tội phạm chống loài người giữa luật hình sự Việt Nam và Quy chế Rome là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt về các mặt cấu thành cụ thể cùng tên gọi của tội phạm. Chẳng hạn, Việt Nam không quy định tội diệt chủng như một điều khoản độc lập mà hành vi mang tên diệt chủng lại bị truy tố dưới điều khoản “Tội chống loài người”. Điều đó dẫn đến tội chống loài người trong luật hình sự Việt Nam có sự khác biệt với tội chống loài người của Quy chế Rome. Thông qua phân tích sự khác nhau về định nghĩa tội phạm chống loài người trong hai văn bản được đề cập, tác giả có những ý kiến như sau:

3.1. Về hạn chế của Bộ luật Hình sự Việt Nam

Tại BLHS, Điều 422. Tội chống loài người có nội dung như sau: “Người nào trong thời bình hay trong chiến tranh mà thực hiện hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi trường tự nhiên…”.

Phân tích cụ thể, người phạm tội này có các hành vi cụ thể là tiêu diệt hàng loạt dân cư, phá hủy nguồn sống, phá hủy cuộc sống văn hóa, tinh thần, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội. Điều đáng chú ý ở đây, nhà làm luật lại sử dụng cụm từ “hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác”. Phải chăng cụm từ này đã trực tiếp gộp tất cả các hành vi đã nêu trước đó lại và gọi chúng là “diệt chủng”? Nếu thực sự là như vậy, có thể phân tích rằng tội chống loài người bao gồm các loại hành vi: diệt chủng, diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, ở đây đã có sự thiếu nhất quán và rõ ràng trong việc phân biệt giữa tội chống loài người và tội diệt chủng. Trong trường hợp tạo ra một khái niệm về tội chống loài người khác thì điều này rõ ràng không phù hợp với tập quán hình sự quốc tế và hơn nữa cũng không hợp lý về mặt ngôn ngữ khi “chống loài người” không thể bao hàm cả ba khái niệm diệt chủng, diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên. Có thể thấy, tội phạm chống loài người ở Quy chế Rome có đối tượng tác động chỉ là con người, trong khi tội chống loài người ở BLHS Việt Nam tác động lên cả con người, tài sản và các đối tượng khác.

Đặc trưng của tội phạm diệt chủng trong pháp luật hình sự quốc tế chính là mục đích muốn tiêu diệt toàn bộ nhóm (một số lượng rất lớn các thành viên của nhóm) hoặc một phần (một số lượng người hạn chế hơn vì sự biến mất của họ sẽ gây ra tác động đối với sự tồn vong của nhóm). Trong Quy chế Rome các nhóm này bao gồm nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo. Khách thể của tội diệt chủng chính là sự tồn tại của một nhóm người được bảo vệ. Trong khi đó, đặc trưng của tội chống loài người là các hành vi được thực hiện như một phần của sự tấn công trên diện rộng hoặc có hệ thống nhắm trực tiếp vào bất kỳ một cộng đồng dân thường nào. Khi phân tích các mặt cấu thành tội phạm, mặc dù các hành vi cụ thể có thể trùng nhau (chẳng hạn như giết người, gây tổn thương nghiêm trọng cho sức khỏe thể chất hoặc tinh thần) nhưng về cơ bản, hai tội phạm này có những sự phân biệt lớn.

Xét các loại hành vi: diệt chủng, diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên. Theo TS. Uông Chu Lưu, diệt sinh (biocid) là hành vi hủy hoại sự sống của sinh vật trên phạm vi một khu vực, vùng lãnh thổ hay quốc gia nào đó. Hậu quả của hành vi diệt sinh là phá hủy làng mạc, cây cối, tiêu diệt động vật, đất đai bị biến chất, không khí, nguồn nước bị ô nhiễm, nguồn thức ăn và môi trường sống của con người, động vật bị hủy hoại. Diệt môi trường tự nhiên, gọi tắt là diệt môi trường (ekocid) là hành vi tàn phá, hủy hoại môi trường thiên nhiên làm mất đi sự cân bằng sinh thái của các yếu tố tạo thành môi trường thiên nhiên, làm đảo lộn những điều kiện của sự sống tự nhiên của tất cả sinh vật, bao gồm cả con người, dẫn đến kết quả cuối cùng là sự sống bị hủy diệt7. Ở đây, việc diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên nên được hiểu là “thực hiện với mục đích tấn công vào con người” vì nếu chỉ đơn thuần là các hành vi như vậy, nó nên được xếp vào Chương XIX BLHS năm 2015 quy định các tội phạm về môi trường. Cả hai loại hành vi diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên đều dẫn đến hậu quả tận diệt nguồn sống của con người tương tự các hành vi “tiêu diệt hàng loạt dân cư, phá hủy nguồn sống, phá hủy cuộc sống văn hóa, tinh thần, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội”, hay nói cách khác là diệt chủng. Vậy, việc tách riêng giữa diệt chủng với diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên bằng từ “hoặc” là không cần thiết. Hơn nữa, việc diệt sinh và diệt môi trường tự nhiên, nếu không có hướng dẫn cụ thể, sẽ không có nhiều sự khác biệt với “phá hủy nguồn sống” đã được liệt kê trước đó. Như vậy, quy định tại Điều 422 vừa không phân biệt rõ ràng tội chống loài người với tội phạm khác, vừa có sự trùng lặp đáng kể giữa các hành vi được liệt kê.

3.2. Đề xuất giải pháp khắc phục

3.2.1. Bổ sung tội diệt chủng như một tội danh riêng biệt

Từ những phân tích trên, có thể thấy việc đưa “diệt chủng” vào BLHS Việt Nam là phù hợp với ý định của nhà làm luật. Tuy nhiên, việc lồng ghép diệt chủng vào trong tội chống loài người đã sinh ra những mâu thuẫn và bất hợp lý đã nêu trên. Do vậy, điều cần thiết là phải hình thành một tội phạm diệt chủng riêng biệt, hay nói cách khác là tách Điều 422 ra làm hai tội, trong đó có tội diệt chủng. Để hình thành quy định về tội phạm này, tác giả nhận thấy việc học hỏi quy định của Quy chế Rome là thực sự hợp lý.

Thứ nhất, quy định của Quy chế Rome nêu rõ được khách thể cùng mục đích bắt buộc của tội diệt chủng, điều mà quy định hiện tại của BLHS nước ta chưa làm được. Hai yếu tố này thỏa mãn được về mặt ngôn ngữ của cụm từ “diệt chủng”. Theo Từ điển tiếng Việt, “diệt chủng” có hai ý nghĩa: một là, làm cho mất giống nòi, hai là, giết người hàng loạt và hủy hoại các điều kiện sinh sống, làm cho một chủng tộc, một dân tộc bị diệt vong8. Như vậy, về đối tượng tác động, có thể cân nhắc giữ nguyên hoặc lựa chọn trong các nhóm dân tộc, sắc tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo sao cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của nước ta. Về mục đích, đây phải là yếu tố bắt buộc của tội phạm khi nó được thực hiện với ý định rõ ràng là nhằm chấm dứt sự tồn vong của một nhóm nhất định.

Thứ hai, tội phạm diệt chủng trong Quy chế Rome liệt kê cụ thể các loại hành vi có thể xảy ra để phục vụ mục đích phạm tội. Đây là mặt hạn chế của Điều 422 khi các hành vi được liệt kê là diệt chủng không rõ ràng, chung chung dẫn đến tình trạng trùng lặp. Các hành vi diệt chủng trong Quy chế Rome bao gồm giết hại, gây hại nghiêm trọng về thể xác hoặc tinh thần cho các thành viên trong nhóm, cố ý gây ra cho nhóm các điều kiện sống được tính toán để dẫn đến hủy diệt toàn bộ hoặc một phần thể chất của nhóm, áp đặt các biện pháp có chủ ý ngăn cản sinh đẻ trong nhóm, cưỡng bức chuyển trẻ em thuộc nhóm này sang nhóm khác. Danh sách các hành vi được liệt kê khá đầy đủ và được lấy trực tiếp từ Công ước về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng năm 1948, một điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ngày 09/6/1981. Đây là một điều kiện thuận lợi để nước ta tiến hành bổ sung tội diệt chủng vào BLHS.

3.2.2. Sửa đổi quy định tội chống loài người

 Song song với việc hình thành tội phạm mới là tội diệt chủng, tội chống loài người tại Điều 422 cần được điều chỉnh cho phù hợp với tên gọi của nó. Hơn nữa, tội diệt chủng điều chỉnh hành vi với ý định nhắm vào một nhóm nhất định nhằm chấm dứt sự tồn vong của nhóm đó, tội phạm chiến tranh điều chỉnh các loại hành vi nguy hiểm trong bối cảnh chiến tranh. Do đó cần có tội phạm chống loài người để điều chỉnh các hành vi không mang dấu hiệu diệt chủng thực hiện trong bối cảnh thời bình hoặc trong trong thời chiến nhưng không liên quan đến chiến sự. Đó là những hành vi tàn bạo và nghiêm trọng nhắm vào con người đến mức gây nguy hiểm cho nền hòa bình, an ninh quốc tế hoặc chấn động lương tâm nhân loại. Tội chống loài người đã trở thành tập quán trong lĩnh vực hình sự quốc tế khi nó đã được coi là một tội phạm quốc tế từ Hiến chương Tòa án Quân sự quốc tế ở Nuremberg năm 1945. Kể từ đó, mặc dù các hành vi cụ thể có thay đổi qua từng văn kiện nhưng về bản chất cốt lõi vẫn không thay đổi, đó là hành động tập thể của một tổ chức gây tổn hại cho dân thường đến ngưỡng bạo lực trên diện rộng hoặc có hệ thống.Vậy nên, cần cân nhắc thật kỹ trong việc định nghĩa các thuật ngữ “trên diện rộng” và “có hệ thống”. Những thuật ngữ này xuất hiện trong Quy chế Rome đòi hỏi vai trò rất lớn của Tòa án trong việc đánh giá mức độ liệu hành vi đó có được thực hiện như một phần của cuộc tấn công “trên diện rộng” và “có hệ thống” hay không. Đồng thời, 11 loại hành vi được liệt kê bao gồm giết người, hủy diệt, nô lệ hóa, trục xuất hoặc cưỡng ép di dân, giam giữ, tra tấn, bạo lực tình dục, đàn áp, cưỡng bức mất tích, phân biệt chủng tộc, các hành vi vô nhân đạo khác có tính chất tương tự phải được lựa chọn để phù hợp với hoàn cảnh thực tế của nước ta.

 

TRẦN TRỌNG TÍN (Học viên cao học ngành Luật - Hành chính tại Maria Curie-Skłodowska University - Ba Lan)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Hình sự năm 2015.

2. Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ngày 09/11/2022.

3. Văn kiện Quốc hội toàn tập tập VI (quyển 1) 1981 - 1983.

4. Uông Chu Lưu, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.

5. Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, 2003.

6. UN, Rome Statute of the International Criminal Court, Treaty Series, vol. 2187, No. 38544, Rome, 17 July 1998 (Tạm dịch: Quy chế Rome của Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998).

7. ICC, Elements of Crimes (Tạm dịch: Các yếu tố tội phạm).

8. UN, Charter of the International Military Tribunal, 1945. (Tạm dịch: Hiến chương Tòa án Quân sự quốc tế ở Nuremberg năm 1945).

9. Các quyết định được công bố trên trang cơ sở dữ liệu của Tòa án Hình sự Quốc tế ICC, https://www.legal-tools.org/.


1 Tờ trình của Hội đồng Bộ trưởng về Dự thảo Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự (Do ông Phan Hiền, Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa VII, ngày 25-6-1983), trong Văn kiện Quốc hội toàn tập, tập VI (quyển 1) 1981 - 1983.

2 Nghị quyết số 27-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, ngày 09 tháng 11 năm 2022.

3 UN, Rome Statute of the International Criminal Court, Treaty Series, vol. 2187, No. 38544, Rome, 17 July 1998 (Tạm dịch: Quy chế Rome của Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998), https://www.icc-cpi.int/sites/default/files/2024-05/Rome-Statute-eng.pdf.

4 Tòa án được thành lập để xử lý các vụ án và vấn đề pháp lý cụ thể trong hoàn cảnh đặc biệt, mang tính tạm thời, không thường trực.

5 ICC: Situation in Republic of Kenya, Pre-trial Chamber II, Decision Pursuant to Article 15 of the Rome Statute on the Authorization of an Investigation into the Situation in the Republic of Kenya, 31 March 2010, ICC-01/09-19, (Republic of Kenya, 31 March 2010), http://www.legal-tools.org/doc/338a6f/, đoạn 79.

6 ICC: Quy chế Rome, Điều 26 và Điều 31.

7 Uông Chu Lưu, Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1999, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.369-370.

8 Hoàng Phê, Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb. Đà Nẵng, 2003, tr.258.

Ảnh minh họa - Nguồn: Internet.