.jpg)
Một số góp ý về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
Bài viết giới thiệu khái quát về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, phân tích, đánh giá một số quy định vẫn còn vướng mắc, từ đó đưa ra một số góp ý nhằm hoàn thiện pháp luật.
1. Giới thiệu khái quát về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
Luật Tương trợ tư pháp được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 2 ngày 21/11/2007, có hiệu lực kể từ 01/7/2008. Qua hơn 16 năm triển khai thực hiện, quy định về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù trong Luật Tương trợ tư pháp đã bộc lộ một số hạn chế. Đặc biệt, theo thống kê đến thời điểm hiện nay, Việt Nam đã ký kết hiệp định song phương về chuyển giao người bị kết án phạt tù với 23 nước trên thế giới[1]. Qua rà soát của Bộ Công an, một số điều khoản về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù trong Luật Tương trợ tư pháp còn một số nội dung chưa thực sự phù hợp với quy định trong các hiệp định này (về điều kiện chuyển giao, các trường hợp từ chối chuyển giao, kinh phí, quá cảnh người bị kết án, xem xét lại bản án...). Do đó, để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 và đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay, việc ban hành Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù (Luật CGNĐCHAPT) là cần thiết. Ngoài ra, Luật được ban hành trên cơ sở thể chế hóa quan điểm của Đảng[2] về hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm nói chung và công tác chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù nói riêng. Cùng với đó, một trong những cơ sở quan trọng của việc ban hành Luật CGNĐCHAPT là bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, đặc biệt tương thích với một số văn bản pháp luật trọng tâm như: Hiến pháp năm 2013, Luật Thi hành án hình sự năm 2019, BLTTHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021), BLDS năm 2015, Luật Tổ chức TAND năm 2024.
Dự thảo 03 Luật CGNĐCHAPT[3] gồm 4 chương, 45 điều. So với quy định về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, dự thảo Luật sửa đổi 14 điều, xây dựng mới 18 điều, bỏ 05 điều và 02 quy định, tập trung chủ yếu vào một số nội dung cơ bản, cụ thể như sau: (1) Quy định rõ Bộ Công an là Cơ quan trung ương về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; (2) Về kinh phí trong chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, bổ sung quy định người đang chấp hành án phạt tù hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể tự nguyện đóng góp, hỗ trợ toàn bộ hoặc một phần chi phí sinh hoạt, đi lại và các chi phí khác của người đang chấp hành án phạt tù được chuyển giao theo quy định của pháp luật; (3) Quy định chi tiết về cơ quan có thẩm quyền xem xét tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam là Tòa án nhân dân khu vực; (4) Quy định chi tiết về điều kiện tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam; (5) Quy định chi tiết về hồ sơ tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam; (6) Quy định chi tiết về trình tự, thủ tục xem xét quyết định tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; (7) Quy định chi tiết về việc tiếp tục chấp hành án phạt tù tại Việt Nam. Tựu trung lại, dự thảo Luật được xây dựng bao gồm 4 Chương: Chương I - Những quy định chung; Chương II - Tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam; Chương III - Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài; Chương IV - Điều khoản thi hành.
2. Một số góp ý về nội dung nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
2.1. Về phần giải thích từ ngữ
Dự thảo Luật đưa ra định nghĩa đối với 3 khái niệm người đang chấp hành án phạt tù, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, chuyển đổi hình phạt tù tại Điều 3 phần giải thích từ ngữ. Tuy nhiên trong nội hàm dự thảo Luật vẫn còn một số khái niệm sau đây cần được định nghĩa rõ như: hợp pháp hóa lãnh sự hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù (Điều 8), quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù (Điều 11). Về vấn đề này, có thể tham khảo khái niệm về “hợp pháp hóa lãnh sự” hiện được quy định tại Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ quy định về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự, đồng thời tham khảo khái niệm “quá cảnh” tại Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, khi diễn giải 2 khái niệm này cần biến đổi cho phù hợp với đối tượng điều chỉnh của dự thảo Luật. Có thể tham khảo cách diễn giải như sau:
- Hợp pháp hóa lãnh sự hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là việc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chứng nhận con dấu, chữ ký, chức danh trên hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của nước ngoài để hồ sơ đó được công nhận và sử dụng tại Việt Nam.
- Quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù là việc người đang chấp hành án phạt tù là người nước ngoài đi qua hoặc lưu lại khu vực quá cảnh tại cửa khẩu quốc tế của Việt Nam để đi nước thứ ba.
2.2. Về hợp pháp hóa lãnh sự
Nội dung về hợp pháp hóa lãnh sự hiện được quy định tại Điều 8 dự thảo Luật. Tuy nhiên, xét nội hàm của điều luật là không tương thích với tên điều luật. Cụ thể, nội dung Điều 8 được quy định như sau: “Văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các tài liệu kèm theo được miễn hợp pháp hóa lãnh sự nếu được ký và đóng dấu bởi cơ quan và người có thẩm quyền, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác”. Như vậy, nội dung của điều luật chỉ đang đề cập đến hoạt động “miễn hợp pháp hóa lãnh sự hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù”, trong khi đó, tên điều luật lại là “Hợp pháp hóa lãnh sự”. Tên điều luật thể hiện rằng nội dung trong điều luật phải bao gồm nhiều vấn đề liên quan đến hợp pháp hóa lãnh sự. Do đó, tác giả kiến nghị sửa đổi tên điều luật thành “Điều 8. Miễn hợp pháp hóa lãnh sự hồ sơ chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù”.
2.3. Về quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù
Hoạt động quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù hiện được quy định tại Điều 11 dự thảo Luật. Tuy nhiên, hiện quy định này chỉ điều chỉnh chung chung 3 nội dung sau: (1) Về việc thông báo trước của bên muốn quá cảnh đến Bộ Công an trong trường hợp cần quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam để chuyển sang nước thứ ba, (2) Quy định về việc Bộ Công an phải liên hệ với nước ngoài để xin phép quá cảnh người nước ngoài sang nước thứ ba, (3) Trách nhiệm quản lý và chịu chi phí của bên quá cảnh trên lãnh thổ Việt Nam.
Xét thấy, quy định này vẫn còn khá chung chung trong khi đây cũng là một nội dung quan trọng của dự thảo Luật. Do vậy, dự thảo Luật nên bổ sung thêm một số nội dung quan trọng để làm dày thêm quy định về quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù, cụ thể bao gồm: trình tự, thủ tục quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù; các trường hợp từ chối quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù.
Trong đó, qua tham khảo một số Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và nước ngoài, đối với quy định về từ chối quá cảnh người đang chấp hành án phạt tù có thể cân nhắc bổ sung các trường hợp sau đây:
- Người bị kết án là công dân của nước mình;
- Nếu yêu cầu quá cảnh có thể phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội và lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân tại Việt Nam.
2.4. Về điều kiện tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
Hiện nay, điều kiện tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam được quy định tại Điều 15 và điều kiện chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài được quy định tại Điều 30 dự thảo Luật. Tuy nhiên Điều 30 trùng một số điều kiện với Điều 15 nên có quy định dẫn chiếu về Điều 15. Tuy nhiên, một số điều kiện tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam được quy định tại Điều 15 có một số điểm bất cập cần điều chỉnh như sau:
- Đối với điều kiện “vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành án phạt tù phải còn ít nhất là 01 năm; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này có thể ít hơn 01 năm” (điểm c khoản 1 Điều 15). Quy định này nhằm đảm bảo tính nhân đạo trong một số trường hợp đặc biệt như người đang chấp hành án phạt tù mắc bệnh hiểm nghèo, người cao tuổi, người già yếu, người là trẻ vị thành niên, phụ nữ đang mang thai hoặc để đáp ứng yêu cầu đối ngoại, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội…[4]. Tuy nhiên, những trường hợp đặc biệt này rất đa dạng trên thực tế, đồng thời, thời hạn chấp hành án còn lại để đồng ý tiếp nhận yêu cầu chuyển giao cũng tùy từng vụ án cụ thể. Việc xác định trường hợp đặc biệt và thời hạn chấp hành án còn lại sẽ dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên. Do đó, thiết nghĩ điều kiện này nên được điều chỉnh rõ ràng như sau: “vào thời điểm nhận được yêu cầu chuyển giao, thời hạn chưa chấp hành án phạt tù phải còn ít nhất là 01 năm; trong trường hợp đặc biệt, thời hạn này có thể ít hơn 01 năm theo thỏa thuận giữa các bên.”
- Đối với điều kiện “Có sự đồng ý của người được chuyển giao. Trường hợp người đang chấp hành án phạt tù không có khả năng bày tỏ sự đồng ý với việc chuyển giao vì lý do tuổi tác, sức khỏe và tinh thần thì phải có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp của người đó”. Xét thấy cần bổ sung thêm trường hợp “người dưới 18 tuổi” vì đối tượng này có tâm sinh lý chưa phát triển toàn diện nên khả năng bày tỏ sự đồng ý cần được xem xét kỹ lưỡng. Do đó, thiết nghĩ đối với người đang chấp hành án phạt tù là người dưới 18 tuổi thì còn cần thêm sự đồng ý của người đại diện của người đó về việc chuyển giao.
2.5. Về trình tự, thủ tục thông báo việc từ chối tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù cho cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài
Theo quy định của dự thảo Luật, cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam có quyền từ chối việc tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù khi thuộc một trong các trường hợp tại Điều 16, Điều 31. Tuy nhiên, 2 điều luật này chỉ dừng lại ở quy định về các trường hợp từ chối mà thiếu quy định về trình tự, thủ tục của việc từ chối, đặc biệt liên quan đến thủ tục thông báo việc từ chối tiếp nhận, từ chối chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của cơ quan có thẩm quyền Việt nam đến cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao, tiếp nhận. Đây là nội dung quan trọng nhưng khi rà soát toàn bộ dự thảo luật vẫn chưa thấy đề cập đến vấn đề này. Do đó, thiết nghĩ cần bổ sung vào dự thảo Luật trình tự, thủ tục về vấn đề này để đảm bảo việc thực thi trên thực tế. Cụ thể, một số nội dung cần được bổ sung có thể bao gồm: thời hạn phải thông báo việc từ chối cho cơ quan chuyển giao, tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù nước ngoài; hình thức thông báo.
2.6. Về hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam
Khoản 1 Điều 17 dự thảo Luật quy định: “1. Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù gồm các tài liệu sau đây: a) Văn bản yêu cầu chuyển giao của cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao hoặc Việt Nam; b) Các tài liệu kèm theo quy định tại Điều 18 của Luật này”. Tiếp theo đó, tại khoản 1 Điều 18 dự thảo Luật ghi nhận: “Văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù phải có các nội dung sau đây: … d. Thông tin để xác định nhân thân, quốc tịch, nơi thường trú cuối cùng tại Việt Nam và nơi đang chấp hành án tại nước chuyển giao…”. Tuy nhiên, theo Bản thuyết minh về dự thảo Luật CGNĐCHAPT của Bộ Công an, điều kiện “người đang chấp hành án phạt tù có nơi thường trú cuối cùng tại Việt Nam” đã bị bãi bỏ. Tương ứng, Điều 15 dự thảo Luật về Điều kiện tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam cũng đã chính thức bãi bỏ điều kiện này. Như vậy, quy định tại Điều 18 là thiếu tương thích với Điều 15 dự thảo Luật.
Đồng thời, quy định này cũng không tương thích với nội dung được đề cập tại Điều 14 dự thảo luật. Theo đó, “Trường hợp không xác định được nơi thường trú cuối cùng tại Việt Nam của người được đề nghị chuyển giao hoặc người được đề nghị chuyển giao không thường trú tại Việt Nam thì Tòa án nhân dân khu vực nơi đặt trụ sở của Cơ quan trung ương về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam”. Quy định này hướng dẫn về việc xác định thẩm quyền quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam, trong đó có trường hợp không xác định được nơi thường trú cuối cùng tại Việt Nam. Do đó, Điều 18 dự thảo Luật không thể đòi hỏi Văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù phải chứa đựng thông tin về nơi cư trú cuối cùng.
Vì thế, thiết nghĩ cần loại bỏ thông tin này ra khỏi yêu cầu bắt buộc trong văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù được quy định tại Điều 18 dự thảo Luật.
2.7. Về nơi gửi đơn kháng cáo đối với quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù (Điều 22) và quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù (Điều 38)
Thủ tục kháng cáo, kháng nghị quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù và quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù lần lượt được quy định tại Điều 22 và 38 dự thảo Luật.
Khoản 5 Điều 22, khoản 5 Điều 38 dự thảo Luật quy định như sau: “Người được đề nghị chuyển giao hoặc người đại diện hợp pháp của người đó có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được quyết định của Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền có quyền kháng nghị trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Tòa án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định. Tòa án nhân dân có thẩm quyền phải gửi hồ sơ và kháng cáo, kháng nghị cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị”.
Quy định tại 2 khoản này đề cập đến chủ thể được quyền kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù, quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Đồng thời, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù thuộc nội hàm của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự[5]. Do đó, có thể hiểu 02 quyết định này là đối tượng của thủ tục phúc thẩm theo quy định của BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 22 và khoản 5 Điều 38 trong dự thảo Luật vừa đề cập không nói rõ chủ thể có quyền kháng cáo, kháng nghị sẽ đơn kháng cáo, quyết định kháng nghị đến đâu. Do đó, thiết nghĩ dự thảo Luật nên bổ sung nội dung này để đảm bảo tính chặt chẽ trong quy định pháp luật, cụ thể như sau:
- Đối với chủ thể kháng nghị là Viện kiểm sát, cần quy định cụ thể việc gửi quyết định kháng nghị đến Tòa án nhân dân khu vực để tương thích với quy định tại Điều 338 BLTTHS 2015.
- Đối với người đang chấp hành án phạt tù và người đại diện của họ, để tạo điều kiện thuận lợi cho những chủ thể này và tương thích với quy định tại Điều 332 BLTTHS 2015, nơi nộp đơn kháng cáo có thể bao gồm tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm, Giám thị Trại tạm giam, Trưởng Nhà tạm giữ, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cơ quan đại diện ngoại giao của nước tiếp nhận có trụ sở tại Việt Nam.
2.8. Về việc hủy quyết định thi hành quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù, quyết định thi hành quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
Theo quy định tại Điều 24 dự thảo Luật, “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù của Tòa án nhân dân có hiệu lực, Chánh án Tòa án đã ra quyết định sơ thẩm phải ra quyết định thi hành quyết định tiếp nhận”. Tương tự tại Điều 39 quy định: “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Tòa án nhân dân có hiệu lực, Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định sơ thẩm phải ra quyết định thi hành quyết định chuyển giao”. Những quyết định này có hiệu lực từ ngày ký ban hành. Tuy nhiên, hiện nay dự thảo Luật chỉ đề cập đến quy định về việc hủy quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù lần lượt tại Điều 25 và Điều 40. Vậy câu hỏi đặt ra, quyết định thi hành quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù có đương nhiên bị hủy bỏ?
Hiện nay dự thảo Luật có vẻ đang đồng nhất việc hủy bỏ quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù là hủy bỏ quyết định thi hành quyết định tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù, đồng nhất việc hủy bỏ quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là hủy bỏ quyết định thi hành quyết định chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Bởi khoản 2 Điều 24, khoản 2 Điều 39 quy định: “Việc tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù phải được tiến hành trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày quyết định thi hành quyết định tiếp nhận/chuyển giao có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Đồng thời theo điểm d khoản 1 Điều 25, điểm d khoản 1 Điều 40, “khi việc tiếp nhận/chuyển giao không được tiến hành trong thời hạn này thì cơ quan có thẩm quyền phải hủy bỏ quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù”. Có thể thấy đây là một trong những thiếu sót của dự thảo Luật vì quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, quyết định thi hành quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù là đều là những quyết định độc lập và đều đồng thời có hiệu lực. Do đó khi đã hủy bỏ quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù thì phải đồng thời hủy bỏ quyết định thi hành quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù. Do đó tác giả kiến nghị cần sửa đổi điểm d khoản 1 Điều 25, điểm d khoản 1 Điều 40 dự thảo Luật như sau: “…khi việc tiếp nhận/chuyển giao không được tiến hành trong thời hạn này thì cơ quan có thẩm quyền phải hủy bỏ quyết định tiếp nhận/chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, quyết định thi hành quyết định tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù”.
2.9. Về nơi tiếp nhận đơn xin chuyển giao của người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam
Theo quy định tại Điều 34 dự thảo Luật, “người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam có nguyện vọng được chuyển giao phải có đơn xin chuyển giao gửi đến Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhận”. Như vậy, nếu chủ thể đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam là người nước ngoài có yêu cầu được thi hành án tại một nước khác thì chỉ được gửi đơn đến 02 nơi là Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước nhận chuyển giao. Có thể thấy người nước ngoài đang thi hành án ở Việt Nam không được gửi đơn đến cơ quan đại diện của nước nhận chuyển giao có trụ sở tại Việt Nam. Quy định này giới hạn quyền của người nước ngoài đang thi hành án phạt tù tại Việt Nam, chưa đảm bảo tính nhân đạo, thuận lợi cho họ bởi trong một số trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước nhận chuyển giao có trụ sở đóng tại Việt Nam. Đồng thời, chưa tương thích với quy định tại Điều 19 dự thảo Luật[6], tạo sự bất bình đẳng giữa người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam và công dân Việt Nam đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài. Do đó, thiết nghĩ dự thảo Luật nên mở rộng địa điểm gửi đơn xin chuyển giao của người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam, bao gồm cả “cơ quan đại diện của nước nhận chuyển giao có trụ sở tại Việt Nam”.
2.10. Về trường hợp người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Quốc phòng
Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 dự thảo Luật, “Trường hợp người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Quốc phòng thì người đó phải được chuyển sang cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Công an để chấp hành án trước khi tiến hành các thủ tục chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù”. Quy định này đáp ứng yêu cầu thực tiễn hiện nay có một số phạm nhân là người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Quốc phòng có nguyện vọng được chuyển giao về nước ngoài. Đồng thời, có thể hiểu việc chuyển phạm nhân đó sang cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Công an để thuận tiện trong tiến hành các thủ tục chuyển giao phạm nhân theo quy định của Luật này[7]. Tuy nhiên, để xác định rõ văn bản pháp luật điều chỉnh trong trường hợp này cần bổ sung vào khoản 2 Điều 36 như sau: “Trường hợp người nước ngoài đang chấp hành án phạt tù tại cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Quốc phòng thì người đó phải được chuyển sang cơ sở giam giữ phạm nhân thuộc Bộ Công an để chấp hành án trước khi tiến hành các thủ tục chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù theo quy định của Luật này”.
3. Một số góp ý về kỹ thuật lập pháp nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù
Thứ nhất, dự thảo Luật sử dụng thuật ngữ “người đại diện hợp pháp” tại một số điều luật như Điều 6, 15, 22, 38). Việc xác định người đại diện của các chủ thể được đề cập trong Luật phải căn cứ vào quy định tại Điều 136 của BLDS 2015. Đồng thời, BLDS 2015 hiện đã sửa đổi thuật ngữ “người đại diện hợp pháp” thành “người đại diện” so với quy định của BLDS 2005 trước đó. Do vậy, để bảo đảm tính thống nhất trong toàn bộ hệ thống pháp luật, cần rà soát toàn bộ dự thảo Luật để chuyển từ thuật ngữ “người đại diện hợp pháp” thành “người đại diện” cho phù hợp.
Thứ hai, dự thảo Luật đã xác định Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực có thẩm quyền quyết định việc chuyển giao, tiếp nhận người đang chấp hành án phạt tù (Điều 14, 29). Tuy nhiên dự thảo Luật sử dụng nhiều thuật ngữ chưa thống nhất như “Tòa án nhân dân có thẩm quyền” (Điều 16, 21, 22, 25, 31, 37, 38, 40) hay “Tòa án cấp sơ thẩm” (Điều 22, 38), hay “Tòa án nhân dân” (Điều 24, 25), hay “Tòa án nhân dân khu vực” (Điều 38). Do đó, thiết nghĩ để đảm bảo tính thống nhất trong nội hàm Luật, cần rà soát điều chỉnh thống nhất việc sử dụng thuật ngữ “Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền”. Thuật ngữ này cũng phù hợp với dự thảo số 06 (được công bố ngày 10/4/2025) của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND năm 2024.
Thứ ba, một số thuật ngữ được sử dụng trong dự thảo Luật vẫn chưa rõ ràng:
(1) Khoản 2 Điều 5 về áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù: “Trong trường hợp cần thiết, Cơ quan trung ương về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù lấy ý kiến của Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan trước khi quyết định”. Trong đó cần xác định rõ “các cơ quan có liên quan” bao gồm các bên nào để đảm bảo tính rõ ràng, thông qua đó xác định trách nhiệm của các cơ quan này.
(2) Điểm b khoản 1 Điều 43: “Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xem xét lại bản án đã tuyên đối với người được chuyển giao theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm và hậu quả pháp lý của việc giám đốc thẩm hoặc tái thẩm”. Thuật ngữ “cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam” cần được xác định rõ, ví dụ cần thay bằng thuật ngữ “Tòa án có thẩm quyền của Việt Nam”.
Thứ tư, cần cân nhắc kết hợp một số điều luật hiện có trong dự thảo Luật để giảm số lượng điều luật và làm gọn gàng hơn nội dung cần điều chỉnh. Cụ thể, kết hợp Điều 17 (Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam) và Điều 18 (Văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam và các tài liệu kèm theo) thành một điều Luật, tương tự, kết hợp Điều 32 (Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài) và Điều 33 (Văn bản yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam cho nước ngoài và các tài liệu kèm theo) thành một điều luật. Về cơ bản, hiện Điều 17 chỉ lý giải Hồ sơ yêu cầu chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài về Việt Nam bao gồm những nhóm tài liệu nào. Tiếp đó, Điều 18 lại quy định về các thông tin, tài liệu cụ thể trong từng nhóm tài liệu. Tương tự đối với Điều 32 và Điều 33. Quy dịnh này làm gia tăng số lượng điều luật không cần thiết. Do đó, dự thảo Luật có thể cân nhắc kết hợp các điều luật như đã đề cập.
Kết luận
Dự thảo Luật CGNĐCHAPT sẽ được thông qua trong thời gian tới dựa trên tính cấp thiết của việc ban hành Luật như đã đề cập. Khi Luật được thông qua và chính thức có hiệu lực sẽ góp phần hoàn thiện pháp luật về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù theo hướng nhân đạo, toàn diện, cụ thể, đồng bộ, thống nhất, khả thi, ổn định, thúc đẩy hợp tác quốc tế trong chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù; giúp bảo đảm tốt hơn quyền con người của người đang chấp hành án phạt tù; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù[8]. Hy vọng một số góp ý về mặt nội dung và kỹ thuật lập pháp của tác giả đối với dự thảo Luật sẽ góp một phần công sức trong việc tiếp tục rà soát, chỉnh sửa, bổ sung dự thảo Luật để thông qua trong thời gian sớm nhất.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2021).
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
4. Luật Tương trợ tư pháp năm 2007.
5. Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ quy định về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự.
6. Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự thảo hồ sơ dự án Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Bộ Công an.
7. Bản thuyết minh về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Bộ Công an.
8. Tờ trình số 233/TTr-CP ngày 19/4/2025 về Dự án Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
9. Dự thảo 03 Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù, https://duthaoonline.quochoi.vn/dt/luat-chuyen-giao-nguoi-dang-chap-hanh-an-phat-tu/9AD330F90087.
[1] Báo cáo thuyết minh về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Bộ Công an, tr.2.
[2] Quan điểm của Đảng được thể chế hóa trong một số văn bản, Báo cáo sau đây: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Kết luận số 83-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Kết luận số 84-KL/TW ngày 29/7/2020 của Bộ Chính trị về tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW), Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và mới đây là Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới, Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.
[3] Dự thảo 03 Luật CGNĐCHAPT, https://duthaoonline.quochoi.vn/dt/luat-chuyen-giao-nguoi-dang-chap-hanh-an-phat-tu/9AD330F90087, truy cập ngày 22/6/2025.
[4] Bản tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý của cơ quan, tổ chức, cá nhân về dự thảo hồ sơ Dự án Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Bộ Công an.
[5] Điều 491 BLTTHS năm 2015.
[6] Khoản 1 Điều 19 dự thảo Luật quy định như sau: “Công dân Việt Nam đang chấp hành án phạt tù ở nước ngoài có thể gửi đơn xin chuyển giao về Việt Nam để tiếp tục chấp hành án phạt tù đến cơ quan có thẩm quyền của nước chuyển giao hoặc cơ quan đại diện Việt Nam ở nước chuyển giao hoặc Bộ Công an”.
[7] Bản thuyết minh về dự thảo Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù của Bộ Công an, tr.12-13.
[8] Tờ trình số 233/TTr-CP ngày 19/4/2025 về Dự án Luật chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Đại diện Bộ Công an Việt Nam tiến hành bàn giao phạm nhân Nikolaenko Galina (nữ - áo đen/trắng) cho Cơ quan Thi hành án hình sự Liên bang Nga vào ngày 27/02/2025 - Nguồn: CA tỉnh Hà Nam.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Tòa án không có thẩm quyền hủy nội dung đăng ký, kê khai trong Sổ mục kê đất đai
-
Đại hội Đảng bộ Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, nhiệm kỳ 2025 – 2030 thành công tốt đẹp
-
Báo chí Cách mạng Việt Nam: “Mạch nguồn tri thức - Kết nối niềm tin”
-
Từ ngày 01/6/2025 sẽ "hết mẹo" trong sát hạch giấy phép lái xe
-
Hôm nay, Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân
Bình luận