Một số lưu ý trong việc giải quyết vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai rất đa dạng, trong bài viết này, tác giả phân tích một số lưu ý trong việc giải quyết vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai rất đa dạng, nhưng phổ biến nhất là các quyết định hành chính, hành vi hành chính về giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất; xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; giải quyết tranh chấp về đất đai và giải quyết khiếu nại các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
1. Một số vấn đề chung
Theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật; tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của luật; quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ.[1]
Với vai trò là chủ thể được Nhà nước trao quyền sử dụng đất, người sử dụng đất có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, trong đó có quyền “khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai”[2]. Trong những năm gần đây, số lượng khiếu kiện hành chính ngày càng gia tăng với tính chất phức tạp. Trong 05 năm qua, các Tòa án đã thụ lý 36.354 vụ; đã giải quyết, xét xử được 32.466 vụ, đạt tỷ lệ 89,3%, vượt chỉ tiêu yêu cầu Nghị quyết của Quốc hội đề ra (so với nhiệm kỳ trước, thụ lý tăng 10.889 vụ; giải quyết tăng 7.707 vụ). Trong đó, giải quyết, xét xử theo thủ tục sơ thẩm 23.901 vụ; theo thủ tục phúc thẩm 8.223 vụ và theo thủ tục giám đốc thẩm 342 vụ.[3] Trong đó, các khiếu kiện hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ án hành chính mà Tòa án phải giải quyết hàng năm.
Vụ án hành chính nói chung và vụ án hành chính liên quan đến lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng là loại án mang tính chất đặc thù vì quan hệ giữa người khởi kiện với người bị kiện tuy bình đẳng về tố tụng trước Tòa án nhưng trong quan hệ hành chính thì người bị kiện là người quản lý, còn người khởi kiện là người bị quản lý. Mặt khác, người bị kiện trong vụ án hành chính thuộc lĩnh vực đất đai là người có chức vụ trong cơ quan quản lý nhà nước, nên khi giải quyết loại án này vừa phải đảm bảo tính thống nhất của pháp luật, vừa phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng để góp phần ổn định tình hình chính trị tại địa phương. Thực tế trong thời gian qua, chất lượng giải quyết nhiều vụ án hành chính về đất đai đã bảo đảm yêu cầu, tuy nhiên cũng có không ít vụ án còn nhiều sai sót, vi phạm nghiêm trọng, bị Hội đồng xét xử giám đốc thẩm tuyên sửa, hủy án để giao về xét xử lại dẫn đến vụ án bị kéo dài.[4]
2. Một số lưu ý trong việc giải quyết vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Thẩm phán khi xem xét đánh giá một quyết định hành chính, hành vi hành chính phải dựa vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên (nếu có) để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách quan về những tài liệu, chứng cứ, tình tiết của vụ án, những căn cứ pháp luật, án lệ (nếu có), để bác yêu cầu hoặc chấp nhận một phần hay toàn bộ yêu cầu khởi kiện, đề nghị cụ thể của đương sự, của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và giải quyết các vấn đề khác có liên quan thông qua nguyên tắc đánh giá quy định tại khoản 3 Điều 191 Luật Tố tụng hành chính năm 2015:
“a) Tính hợp pháp và có căn cứ về hình thức, nội dung của quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện;
b) Tính hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính hoặc việc thực hiện hành vi hành chính;
c) Thời hiệu, thời hạn ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính;
d) Mối liên hệ giữa quyết định hành chính, hành vi hành chính với quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và những người có liên quan;
đ) Tính hợp pháp và có căn cứ của văn bản hành chính có liên quan (nếu có);
e) Vấn đề bồi thường thiệt hại và vấn đề khác (nếu có)”.
Đối với việc giải quyết vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, ngoài việc thực hiện các nguyên tắc nêu trên, cần đặc biệt lưu ý các vấn đề như việc xử phạt có trong thời hiệu; thẩm quyền xử phạt có đúng hay không; hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả đối với các hành vi… có đúng quy định của pháp luật chuyên ngành, cụ thể là Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020 (sau đây gọi tắt là Luật Xử lý vi phạm hành chính), Nghị định số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm chính trong lĩnh vực đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định số 91/2019/NĐ-CP) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Khi xem xét, đánh giá đối tượng khởi kiện là quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cần lưu ý các vấn đề sau đây:
2.1. Lưu ý về thời hiệu xử phạt, thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính
Để đánh giá một quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có hợp pháp hay không, cần xác định việc xử phạt có trong thời hiệu, việc ra quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính có trong thời hạn hay không?
- Về thời hiệu xử phạt:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 149 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu là thời hạn do luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó thì phát sinh hậu quả pháp lý đối với chủ thể theo điều kiện do luật quy định. Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan.
Theo Điều 4 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là 2 năm. Nếu hết thời hiệu nêu trên, người có thẩm quyền không được xử phạt theo điểm c khoản 1 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Tuy nhiên cần lưu ý, trong thời hạn 2 năm nếu cá nhân, tổ chức cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc xử phạt.[5]
Thời điểm để tính thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được được quy định như sau (Điều 4 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP): Đối với hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc thì thời hiệu được tính từ thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm; đối với hành vi vi phạm hành chính đang được thực hiện thì thời hiệu được tính từ thời điểm người có thẩm quyền thi hành công vụ phát hiện hành vi vi phạm.
Các hành vi vi phạm được xác định là đã kết thúc và thời điểm chấm dứt hành vi vi phạm như sau:
+ Hành vi chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê đất trả tiền một lần, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất hoặc nhận chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, thuê đất trả tiền một lần, thừa kế, nhận thế chấp, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không được giao dịch hoặc không đủ điều kiện giao dịch về quyền sử dụng đất theo quy định mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản giao dịch đã ký; thời điểm kết thúc hành vi giao dịch về quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết;
+ Hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất dưới hình thức phân lô, bán nền trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê nhưng không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật hoặc đủ điều kiện nhưng chưa được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cho phép mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản chuyển nhượng đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển nhượng quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết;
+ Hành vi người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam nhận chuyển quyền sử dụng đất ở chưa có nhà ở không thuộc dự án phát triển nhà ở hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất không phải là đất ở nằm ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhận chuyển nhượng vốn đầu tư là giá trị quyền sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp hoặc thuê đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân ngoài khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản chuyển quyền đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển quyền sử dụng đất là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết;
+ Hành vi chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án đầu tư đã được thực hiện nhưng quyền sử dụng đất không được chuyển nhượng hoặc không đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định của pháp luật mà các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất đã ký; thời điểm kết thúc hành vi chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết;
+ Hành vi bán, mua tài sản gắn liền với đất được Nhà nước cho thuê thu tiền thuê đất hàng năm không đủ điều kiện quy định tại Điều 189 của Luật Đất đai nhưng các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản bán, mua tài sản đã ký; thời điểm kết thúc hành vi bán, mua tài sản là thời điểm thực hiện xong các nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng hoặc văn bản đã ký kết;
+ Các hành vi hủy hoại đất; di chuyển, làm sai lệch hoặc hư hỏng mốc chỉ giới sử dụng đất, mốc địa giới hành chính; tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất đã kết thúc trước thời điểm phát hiện hành vi vi phạm. Thời điểm kết thúc của các hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã thực hiện xong các hoạt động của hành vi vi phạm đó;
+ Hành vi vi phạm điều kiện hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực đất đai mà hoạt động dịch vụ đã thực hiện xong và các bên liên quan đã hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng, văn bản thực hiện dịch vụ đã ký kết; thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm ký văn bản thanh lý hợp đồng hoặc văn bản thực hiện dịch vụ đã ký kết;
+ Hành vi cung cấp thông tin không chính xác phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai; thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã thực hiện xong việc cung cấp thông tin không chính xác cho tổ chức, cá nhân thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật;
+ Hành vi của chủ đầu tư dự án kinh doanh bất động sản không nộp hồ sơ để làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất hoặc không cung cấp, cung cấp không đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất tự nộp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 7 Điều 26 của Luật Nhà ở và khoản 4 Điều 13 của Luật Kinh doanh bất động sản; nhưng sau thời hạn quy định chủ đầu tư đã khắc phục sai phạm. Thời điểm kết thúc hành vi vi phạm quy định tại điểm này là thời điểm đã nộp hồ sơ hoặc đã cung cấp đầy đủ giấy tờ cho người mua, thuê mua nhà, công trình xây dựng, người nhận chuyển quyền sử dụng đất để tự nộp hồ sơ cấp Giấy chứng nhận theo quy định;
Trường hợp có hành vi vi phạm hành chính nêu trên mà người có hành vi vi phạm không chứng minh được thời điểm kết thúc hành vi vi phạm thì được xác định là hành vi vi phạm còn trong thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính.
- Về thời hạn ra quyết định xử phạt:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thời hạn ra quyết định xử phạt tối thiểu là 07 ngày làm việc, tối đa là 2 tháng (tuỳ từng trường hợp cụ thể), kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Hết thời hạn nói trên mà người có thẩm quyền vẫn ra quyết định xử phạt là sai.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý, trong trường hợp đã hết thời hạn, thời hiệu nêu trên, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó.
Quyết định phải ghi rõ lý do không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính; tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu; biện pháp khắc phục hậu quả được áp dụng, trách nhiệm và thời hạn thực hiện.
Việc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản này không bị coi là đã bị xử phạt vi phạm hành chính.[6]
2.2. Lưu ý về hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả
- Về hình thức xử phạt:
Theo Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP, hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung. Các hình thức xử phạt chính bao gồm cảnh cáo, phạt tiền. Hình thức xử phạt bổ sung, bao gồm:
+ Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất;
+ Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 06 tháng đến 09 tháng hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai từ 09 tháng đến 12 tháng.
Cần lưu ý, mỗi vi phạm hành chính bị áp dụng một hình thức xử phạt chính, có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung kèm theo.[7] Như vậy, nếu một quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai áp dụng cả hai hình thức là cảnh cáo và phạt tiền là sai.
- Về các biện pháp khắc phục hậu quả:
Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định 17 biện pháp khắc phục hậu quả áp dụng đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, ví dụ:
+ Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm;
+ Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm theo quy định tại Nghị định này;
+ Buộc thực hiện thủ tục hành chính về đất đai;
+ Buộc trả lại đất sử dụng không đúng quy định;
+ Buộc hoàn trả tiền chuyển nhượng, tiền cho thuê, tiền cho thuê lại đất không đúng quy định của pháp luật trong thời gian sử dụng đất còn lại;
+ Thu hồi đất theo quy định của Luật Đất đai đối với các trường hợp phải thu hồi đất…
Đối với mỗi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả nêu trên.
- Lưu ý về việc áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính và thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp có giao dịch về quyền sử dụng đất:
+ Trường hợp vi phạm hành chính xảy ra trước khi chuyển quyền sử dụng đất thì bên chuyển quyền sử dụng đất bị xử phạt vi phạm hành chính và phải thực hiện biện pháp buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm (nếu khi xử phạt hành vi chuyển quyền buộc bên nhận chuyển quyền phải trả lại đất cho bên chuyển quyền) theo quy định. Bên nhận chuyển quyền sử dụng đất phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả còn lại đối với từng trường hợp vi phạm theo quy định;
+ Trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với cả hai bên chuyển đổi quyền sử dụng đất. Trường hợp chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với bên nhận chuyển quyền sử dụng đất. Trường hợp cho thuê, thế chấp bằng quyền sử dụng đất mà không đăng ký biến động đất đai thì xử phạt vi phạm hành chính đối với người sử dụng đất đã cho thuê, đã thế chấp.
2.3. Lưu ý về thẩm quyền xử phạt
Thẩm quyền xử phạt cũng là một nội dung quan trọng cần đặc biệt lưu ý để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính bị kiện. Việc xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai còn có ý nghĩa trong việc xác định người bị kiện trong vụ hành án hành chính.
Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, “Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện”.
Theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân, vì vậy người bị kiện trong vụ hành án hành chính về quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là cá nhân, Tòa án xác định người bị kiện là cơ quan, tổ chức là sai.
Cụ thể, theo quy định tại Điều 38, Điều 39 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP, cá nhân có thẩm xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai bao gồm Chủ tịch UBND cấp xã, Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh; Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành đất đai đang thi hành công vụ; Chánh Thanh tra Sở, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành đất đai do Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, Giám đốc Sở, Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra; Chánh Thanh tra Sở, Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành đất đai do Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai, Giám đốc Sở, Chánh Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra; Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai; người có thẩm quyền của Thanh tra chuyên ngành xây dựng có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi vi phạm quy định tại Điều 31 của Nghị định số 91/2019/NĐ-CP; người có thẩm quyền của Thanh tra Bộ Quốc phòng có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất quốc phòng, người có thẩm quyền của Thanh tra Bộ Công an có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất an ninh theo quy định tại Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
Nghị định số 91/2019/NĐ-CP quy định thẩm quyền xử phạt của các cá nhân nêu trên như sau:
- Chủ tịch UBND cấp xã có quyền:
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 5.000.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất.
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm.
- Chủ tịch UBND cấp huyện có quyền:
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 50.000.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn.
+ Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
- Chủ tịch UBND cấp tỉnh có quyền:
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000.000 đồng;
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn.
+ Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất.
+ Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm.
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 50.000.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn.
+ Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
- Trưởng đoàn thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường có quyền:
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn;
+ Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
- Chánh Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai có quyền:
+ Xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000.000 đồng.
+ Xử phạt bổ sung: Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn;
+ Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP.
Thanh tra Bộ Quốc phòng có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất quốc phòng, Thanh tra Bộ Công an có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính trong sử dụng đất an ninh theo quy định tại Nghị định này.
Lưu ý, nếu phát hiện hành vi vi phạm không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt, thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả thì người có thẩm quyền nêu trên thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 58 của Luật Xử lý vi phạm hành chính và khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung tại khoản 7 Điều 1 của Nghị định số 97/2017/NĐ-CP.
2.4. Lưu ý về hành vi vi phạm hành chính
Các hành vi vi phạm hành chính, hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả cụ thể được quy định tại Chương II Nghị định số 91/2019/NĐ-CP. Trong đó cần lưu ý Nghị định này đã giải thích một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tại Điều 3 như sau:
- “Lấn đất” là việc người sử dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất sử dụng mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép hoặc không được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép.
- “Chiếm đất” là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép;
+ Tự ý sử dụng đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác mà không được tổ chức, cá nhân đó cho phép;
+ Sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê đất đã hết thời hạn sử dụng mà không được Nhà nước gia hạn sử dụng (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng đất nông nghiệp);
+ Sử dụng đất trên thực địa mà chưa hoàn thành các thủ tục giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật.
- “Hủy hoại đất” là hành vi làm biến dạng địa hình hoặc làm suy giảm chất lượng đất hoặc gây ô nhiễm đất mà làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định, trong đó:
+ Làm biến dạng địa hình trong các trường hợp: thay đổi độ dốc bề mặt đất; hạ thấp bề mặt đất do lấy đất mặt dùng vào việc khác hoặc làm cho bề mặt đất thấp hơn so với thửa đất liền kề; san lấp đất có mặt nước chuyên dùng, kênh, mương tưới, tiêu nước hoặc san lấp nâng cao bề mặt của đất sản xuất nông nghiệp so với các thửa đất liền kề; trừ trường hợp cải tạo đất nông nghiệp thành ruộng bậc thang và hình thức cải tạo đất khác phù hợp với mục đích sử dụng đất được giao, được thuê hoặc phù hợp với dự án đầu tư đã được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất phê duyệt hoặc chấp thuận;
+ Làm suy giảm chất lượng đất trong các trường/. hợp: làm mất hoặc giảm độ dầy tầng đất đang canh tác; làm thay đổi lớp mặt của đất sản xuất nông nghiệp bằng các loại vật liệu, chất thải hoặc đất lẫn sỏi, đá hay loại đất có thành phần khác với loại đất đang sử dụng; gây xói mòn, rửa trôi đất nông nghiệp;
+ Gây ô nhiễm đất là trường hợp đưa vào trong đất các chất độc hại hoặc vi sinh vật, ký sinh trùng có hại cho cây trồng, vật nuôi, con người;
+ Làm mất khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định là trường hợp sau khi thực hiện một trong các hành vi làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm đất mà dẫn đến không sử dụng đất được theo mục đích được Nhà nước giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất;
+ Làm giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định là trường hợp sau khi thực hiện một trong các hành vi làm biến dạng địa hình, làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm đất mà phải đầu tư cải tạo đất mới có thể sử dụng đất theo mục đích đã được Nhà nước giao, cho thuê, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất.
- “Giao dịch về quyền sử dụng đất” là trường hợp các bên liên quan thực hiện việc chuyển đổi hoặc chuyển nhượng hoặc tặng cho hoặc cho thuê, cho thuê lại hoặc thừa kế hoặc thế chấp hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, khi giải quyết vụ án hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, cần lưu ý mục 3 phần II Hướng dẫn số 22/HD-VKSTC[8] ngày 05/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về một số nội dung liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai./.
Đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp - Ảnh Báo TNMT
[1] Điều 54 Hiến pháp năm 2013.
[2] Khoản 7 Điều 166 Luật Đất đai năm 2013.
[3] Tòa án nhân dân tối cao (2020), Báo cáo số 47/BC-CA ngày 20/10/2020 của Chánh án TAND tối cao về công tác của các Tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, tr. 9.
[4] Hướng dẫn số 22/HD-VKSTC ngày 05/6/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về một số nội dung liên quan đến công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai.
[5] Theo điểm d khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[6] Khoản 2 Điều 65 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[7] Khoản 3 Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính.
[8] Xem tại: https://vksndtc.gov.vn/vanban/Pages/qppl.aspx?ItemID=336.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận