Một số vấn đề về dấu hiệu định tội của tội "Tổ chức đánh bạc" quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015

Bài viết phân tích và đánh giá dấu hiệu định tội quy định tại điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015, tập trung vào những vướng mắc, hạn chế là nguyên nhân gây nên khó khăn trong việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung quy định điều luật và các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định điểm d, đ khoản 1 Điều 322 trong thực tiễn áp dụng pháp luật.

Năm 1985, Bộ luật Hình sự đầu tiên của nước ta được ban hành, trong đó có tội “Tổ chức đánh bạc”, tuy nhiên, điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Đến khi Bộ luật Hình sự năm 1999 được thông qua và được sửa đổi, bổ sung năm 2009, tội “Tổ chức đánh bạc” tiếp tục được quy định tại Điều 249. Hội đồng Thẩm phán (HĐTP) Toà án nhân dân (TAND) tối cao đã ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999 như: Nghị quyết số 02/2003/NQ - HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 01/2006/NQ - HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999; Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

1. Quy định của Bộ luật Hình sự về dấu hiệu định tội của tội “Tội tổ chức đánh bạc” tại điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015

Trước sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội của đất nước, quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều quy định đã không còn phù hợp, Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS) được ban hành, quy định tội “Tổ chức đánh bạc” tại Điều 322 để khắc phục những điểm còn hạn chế. So với quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 322 BLHS vẫn quy định tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm nhưng được quy định lại theo hướng là một tình tiết định tội độc lập trong cấu thành cơ bản của tội phạm tại điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS. Bên cạnh đó, Điều 322 BLHS cũng đã cụ thể hóa tình tiết “Có quy mô lớn” từ hướng dẫn tại Nghị quyết 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của HĐTP TAND tối cao thành các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều luật này; trong đó điểm d quy định “Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc”.

Trong luật hình sự, dấu hiệu định tội là dấu hiệu được mô tả trong các cấu thành tội phạm, quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự, nhằm xác định hành vi thực hiện có phạm tội hay không và là cơ sở phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Giống như tội “Đánh bạc”, tội “Tổ chức đánh bạc” xâm phạm khách thể là trật tự công cộng, trật tự trị an xã hội; chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; lỗi của người tổ chức đánh bạc là lỗi cố ý. Ngoài ra, tội “Tổ chức đánh bạc” còn có các dấu hiệu định tội đặc trưng, phản ánh mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thể hiện cụ thể ở những hành vi khách quan trong yếu tố mặt khách quan của tội phạm. Trong Điều 322 BLHS nhà làm luật quy định hai tội danh là “Tổ chức đánh bạc” và tội “Gá bạc”, giữa hai tội phạm này chỉ khác nhau về dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm. Trong đó, tổ chức đánh bạc là hành vi rủ rê, lôi kéo người khác tham gia vào hoạt động đánh bạc trái phép; hành vi của người tổ chức đánh bạc bị coi là phạm tội khi thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm đ khoản 1 của Điều luật. 

Đáng chú ý, điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS quy định theo hướng liệt kê các hành vi cụ thể như: có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc, có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc, phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc… Điểm chung của các hành vi này là nhằm hướng đến việc tổ chức, hỗ trợ và bảo vệ hoạt động đánh bạc một cách chuyên nghiệp và có hệ thống.

Trong khi đó, đối với điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS nhấn mạnh vào yếu tố nhân thân của người thực hiện hành vi, cụ thể Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 mà còn vi phạm” là trường hợp trước đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tương ứng như đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính mà lại vi phạm. Đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là trường hợp trước đó đã bị kết án về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện một trong những hành vi trong nhóm tội đánh bạc.

Việc xác định chính xác dấu hiệu định tội có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh và quyết định hình phạt. Khoản 1 Điều 322 BLHS quy định về tội “Tổ chức đánh bạc” là cấu thành tội phạm cơ bản, quy định những dấu hiệu định tội của tội phạm này. Tuy nhiên, việc áp dụng các dấu hiệu định tội, đặc biệt là dấu hiệu định tội quy định tại các điểm d và đ của Điều luật này trên thực tiễn hiện đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và đặt ra một số vấn đề cần làm rõ.

2. Hạn chế trong quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng dấu hiệu định tội của tội “Tổ chức đánh bạc” tại điểm  d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015

Thứ nhất, về dấu hiệu định tội tại điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS: Điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS quy định theo hướng liệt kê các hành vi cụ thể của hoạt động tổ chức đánh bạc và các hành vi đều nhằm hướng đến việc duy trì sự hoạt động hay phát triển lớn mạnh của sòng bạc. Từ quy định này, có thể chia làm 03 nhóm hành vi gồm (i) hỗ trợ về tài chính, cung cấp vốn duy trì hoạt động đánh bạc; (ii) các hoạt động quản lý, điều hành sòng bạc; (iii) các hoạt động nhằm phát triển hoạt động đánh bạc. Việc quy định rõ ràng và chi tiết như trên là cần thiết nhằm giúp cơ quan chức năng dễ dàng hơn trong việc xác định và xử lý các hành vi liên quan đến tổ chức đánh bạc, đồng thời đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, việc quy định theo hướng liệt kê lại không bao quát được hết các hành vi trên thực tiễn và nhanh chóng trở nên lạc hậu trước sự đa dạng của các hành vi tổ chức đánh bạc.

Bởi lẽ, trên thực tế, còn rất nhiều hành vi khác tương tự với 03 nhóm hành vi trên như: nhóm (i) còn bao gồm hành vi cho người đánh bạc vay, mượn tiền; cung cấp dịch vụ lưu trú hoặc các tiện ích khác cho người đánh bạc; nhóm (ii) bao gồm thêm các hoạt động đảm bảo an ninh cho người đánh bạc, phân công nhiệm vụ cho nhân viên, quản lý tài chính, kiểm soát người đánh bạc, thiết lập các quy định nội bộ, thu phí, kiểm soát các hoạt động đánh bạc; nhóm (iii) có thể mở rộng đến tổ chức các sự kiện đánh bạc như giải đấu, cuộc thi đánh bạc, quản lý hệ thống công nghệ phục vụ đánh bạc trực tuyến, phát triển phần mềm, hoặc điều hành cơ sở dữ liệu... Những hành vi này đóng vai trò thiết yếu trong việc duy trì và phát triển sòng bạc, song lại chưa được điều chỉnh trực tiếp bởi điểm d khoản 1 Điều 322.

Qua thực tiễn xét xử thấy rằng, có nhiều trường hợp người thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc, không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng có hành vi cho những người tham gia đánh bạc vay tiền hoặc mượn tiền để họ tiếp tục thực hiện hành vi đánh bạc. Khi định tội danh trong tình huống này có quan điểm cho rằng mặc dù không trực tiếp đánh bạc nhưng về mặt ý chí người tổ chức đánh bạc đã có sự đồng thuận với người vay, mượn tiền (người tham gia đánh bạc), tức là dùng số tiền vay, mượn được để tiếp tục đánh bạc. Hành vi cho vay, mượn tiền là để giúp sức, tạo điều kiện vật chất để người vay, mượn tiền thực hiện hành vi đánh bạc. Do đó, ngoài tội “Tổ chức đánh bạc” bị cáo còn phải chịu thêm tội “Đánh bạc”. Vấn đề này được minh chứng qua việc phân tích Bản án số 14/2023/HS-PT ngày 14/02/2023 của TAND tỉnh B đối với bị cáo Phạm Minh Đ và đồng phạm. Vụ án có 10 bị cáo, trong đó bị cáo Nguyễn Ngọc N1 không tham gia đánh bạc mà đứng ra tổ chức đánh bạc để thu tiền xâu. Quá trình đánh bạc, N1 mượn tiền của bị cáo Trịnh Trí Th và Đỗ Như N2 để cho bị cáo Nguyễn Minh P mượn đánh bạc. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo N1 về tội “Tổ chức đánh bạc”. Cấp phúc thẩm nhận định hành vi cho bị cáo P mượn tiền của bị cáo N1 là đồng phạm với P về tội “Đánh bạc” nhưng cấp sơ thẩm không truy tố, xét xử bị cáo N1 về tội “Đánh bạc” là bỏ lọt tội phạm, nên hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung[1].

Quan điểm khác lại cho rằng hành vi cho người đánh bạc vay, mượn tiền không thuộc các dấu hiệu được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS nhưng nhằm mục đích cung cấp tài chính để duy trì sòng bạc, không phải tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền nên không xét xử bị cáo thêm tội “Đánh bạc” với vai trò đồng phạm, cần thu hút về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS. Bản án số 66/2023/HS-ST ngày 22/9/2023 của TAND huyện T, tỉnh T đối với bị cáo Nguyễn Văn V và đồng phạm xét xử theo quan điểm này. Vụ án có 11 bị cáo, trong đó bị cáo V đóng vai trò là người tổ chức sòng bạc, rủ rê, lôi kéo người khác tham gia đánh bạc trái phép, phân công người canh đường, cảnh giới… đồng thời, trong quá trình các đối tượng đánh bạc, bị cáo V đưa tiền cho H và C để tiếp tục tham gia đặt cược. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo V tội “Tổ chức đánh bạc”[2].

Theo quan điểm tác giả, để xác định dấu hiệu định tội, định tội danh một cách chính xác trong trường hợp này cần phân tích đánh giá, bản chất từng hành vi, cụ thể: nếu các bị cáo chỉ cho người đánh bạc vay, mượn tiền để đánh bạc mà không thực hiện hành vi tổ chức đánh bạc thì cấu thành tội “Đánh bạc” với vai trò đồng phạm giúp sức; nếu các bị cáo là người tổ chức ra sòng bạc, có thuê người cảnh giới, canh đường, rủ rê nhiều người khác tham gia đánh bạc trái phép; việc các bị cáo cho những người tham gia đánh bạc vay, mượn tiền nhằm mục đích cung cấp tài chính, duy trì việc đánh bạc để tiếp tục thu lợi bất chính không nhằm mục đích thỏa mãn việc đánh bạc của bản thân thì hành vi chỉ cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc”. Do đó, tác giả cho rằng mặc dù các hành vi cụ thể được nêu trong điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS không đề cập đến hành vi “cho vay, mượn tiền” mà chỉ quy định “cầm cố tài sản” nhưng cần phải hiểu rõ bản chất của quy định này là những hành vi nhằm tạo điều kiện cho hoạt động của sòng bạc được thuận lợi và liên tục, nên hành vi của các bị cáo chỉ cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo quan điểm thứ hai.

Thứ hai, về dấu hiệu định tội tại điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS: So với quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2015 vẫn quy định tình tiết “Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội phạm nhưng được quy định lại theo hướng là một tình tiết định tội độc lập trong cấu thành cơ bản của tội phạm tại điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS. Hay nói cách khác, với cách thức quy định tại khoản 1 Điều 322 BLHS hiện nay thì các điểm a, b, c, d, đ là những tình tiết định tội độc lập, và khi người thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn dấu hiệu định tội của một trong các điểm quy định tại khoản 1 Điều này thì có thể xem xét xử lý.

Xét về bản chất, việc lấy yếu tố nhân thân của người thực hiện hành vi phạm tội làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự nhằm mục đích răn đe, trừng trị nghiêm khắc đối với những người cố ý xem thường pháp luật. Do vậy hầu như các quy định của BLHS liên quan vấn đề này đều quy định theo hướng chỉ áp dụng yếu tố nhân thân làm tình tiết định tội khi lần phạm tội sau hành vi phạm tội không đảm bảo về mặt định lượng của tội phạm, điển hình là một số tội thuộc chương “Các tội xâm phạm sở hữu”[3], “Các tội phạm về ma túy”[4], “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”[5]....Do đó, việc áp dụng thêm điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS trong trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo một hay nhiều tình tiết định tội quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS là gây bất lợi cho bị cáo.

Điều này dẫn đến tình trạng có Tòa án vẫn áp dụng quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS trong trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo một hay nhiều tình tiết định tội quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS. Trường hợp này được minh chứng qua Bản án số 45/2020/HS-PT ngày 25/6/2020 của TAND thành phố H đối với bị cáo Nguyễn Hồng Q. Bị cáo Q có 01 tiền án về tội “Đánh bạc”. Ngày 23/5/2020 bị cáo rủ rê các bị cáo S, C, P, T và một số người khác đến sòng bạc (hình thức xóc đĩa). Khi bắt quả tang thu giữ và xác định số tiền đánh bạc của 21 bị cáo là 39.360.000 đồng. Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Q về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a và đ khoản 1 Điều 322 BLHS[6].

Trong khi Tòa án khác lại không áp dụng quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS trong trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo một hay nhiều tình tiết định tội quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS, chỉ xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng hoặc xem xét yếu tố nhân thân khi quyết định hình phạt. Cụ thể tại Bản án số 35/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của TAND tỉnh L đối với bị cáo Hoàng Hữu H (có 01 tiền án về tội “Tổ chức đánh bạc”). Trong vụ án này, bị cáo H được Bùi Trắc D thuê làm nhiệm vụ giam tiền tại sới bạc do D tổ chức; D trả công cho H 600.000 đồng; về số tiền sử dụng vào việc đánh bạc thu được, xác định là 74.010.000 đồng; số người tham gia đánh bạc là trên 10 người. Như vậy, bị cáo H đã cùng thực hiện hành vi phạm tội “Tổ chức đánh bạc” được quy định tại các điểm a, c khoản 1 Điều 322 BLHS. Ngoài ra, do bị cáo H có một tiền án về tội “Tổ chức đánh bạc” nên bị cáo H phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Hoàng Hữu H về tội “Tổ chức đánh bạc” theo các điểm a, c khoản 1 Điều 322, điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS[7].

Ngoài ra, cũng có Tòa án xem xét áp dụng cả tình tiết định tội (điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS) và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS, minh chứng qua Bản án số 45/2022/HS-ST ngày 12/10/2021 của TAND huyện P, thành phố C. Nguyễn Thanh T có 01 tiền án về tội “Tổ chức đánh bạc”. Trong quá trình thực hiện tổ chức cá cược đá gà ăn tiền qua mạng, các bị cáo đã thỏa thuận với nhau và có vai trò cụ thể trong đó T thực hiện nhận cá cược đá gà ăn tiền qua mạng với các con bạc, sau khi nhận cá cược từng độ gà thì điện thoại báo cho N biết. Các bị cáo bắt đầu tổ chức ghi cá cược đá gà qua mạng ăn thua bằng tiền từ ngày 26/12/2019 đến ngày 28/12/2019, mỗi ngày trên 10 cặp gà và tiền cá cược mỗi cặp gà đều trên 5.000.000 đồng.

Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 45/2021/HSST ngày 12/10/2021 của TAND huyện P, thành phố C đã nhận định: Bị cáo Nguyễn Thanh T và Nguyễn Hoàng H thực hiện nhận cá cược đá gà ăn tiền qua mạng với các con bạc tại các nơi khác, sau khi nhận cá cược từng độ gà thì điện thoại báo cho N biết và nhận tiền hoa hồng từ N. Việc tính thắng thua chung chi với người chơi thì T, H là người trực tiếp tính với người chơi. Riêng bị cáo T bị kết án chưa được xóa án tích tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS[8].

Theo quan điểm của tác giả, như phân tích nêu trên, đối với những người cố ý xem thường pháp luật thể hiện qua việc họ hoàn toàn nhận thức được việc mình đã có tiền án, tiền sự về tội phạm này nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, nên lần phạm tội này mặc dù chưa đảm bảo về mặt định lượng của tội phạm, họ vẫn phải chịu trách nhiệm hậu quả pháp lý bất lợi. Mặt khác, đối với nhóm tội đánh bạc, mức định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự là 5.000.000 đồng trở lên, tăng hơn so với quy định của các BLHS trước đây là 2.000.000 đồng, thể hiện tính chất và mức độ nguy hiểm của loại tội phạm này có sự thay đổi theo chiều hướng nhẹ hơn và có lợi hơn cho bị cáo. Do đó, việc vẫn áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS trong trường hợp hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo một hay nhiều tình tiết định tội quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều 322 BLHS là gây bất lợi cho bị cáo; chỉ nên áp dụng khi hành vi phạm tội của bị cáo không thỏa mãn các dấu hiệu định tội tại các điểm khác. Trường hợp đã thỏa mãn các tình tiết định tội quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 322 BLHS thì áp dụng tiền án là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS hoặc là xem xét yếu tố nhân thân khi quyết định hình phạt đối với tiền sự.

3. Kiến nghị hoàn thiện quy định tại các điểm d, đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự năm 2025 về tội “Tổ chức đánh bạc” và đảm bảo hiệu quả áp dụng

Từ những phân tích trên, tác giả kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định tại các điểm d, đ khoản 1 Điều 322 BLHS về tội “Tổ chức đánh bạc”:

Thứ nhất, đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định tại điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS theo hướng quy định khái quát hóa các hành vi tổ chức đánh bạc theo hướng bổ sung thêm các hành vi khác nhằm quản lý, điều hành; duy trì và phát triển hoạt động đánh bạc. Từ đó, đảm bảo tính ổn định của pháp luật, tạo cơ sở cho các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật thống nhất, đồng thời nâng cao tính dự báo của các quy định pháp luật, nhất là các loại tội phạm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự phát triển mạnh mẽ trong thời đại công nghệ số trong đó có tội “Tổ chức đánh bạc”.

Thứ hai, kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 322 BLHS theo hướng chỉ áp dụng điểm đ khi hành vi phạm tội của bị cáo không thỏa mãn các dấu hiệu định tội quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 của Điều luật. Bởi lẽ, bản chất của việc lấy dấu hiệu nhân thân làm tình tiết định tội khi hành vi của người phạm tội không thỏa mãn về dấu hiệu định lượng hay các dấu hiệu khác đã được quy định, nhằm mục đích răn đe nghiêm khắc. Mặt khác, đề xuất này cũng phù hợp với kỹ thuật lập pháp của BLHS hiện nay và đảm bảo tính có lợi cho bị cáo.

Từ cơ sở một số đề xuất trên, điểm d, đ khoản 1 Điều 322 BLHS có thể được xem xét, sửa đổi bổ sung như sau:

1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

.....

d, Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc hoặc các hành vi khác nhằm quản lý, điều hành; duy trì và phát triển hoạt động đánh bạc.

đ) Tổ chức đánh bạc không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 Điều này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Ngoài ra, từ đề xuất sửa đổi, bổ sung điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS nêu trên, tác giả kiến nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết hướng dẫn áp điểm d khoản 1 Điều 322 BLHS để cụ thể hóa quy định “các hành vi khác nhằm quản lý, điều hành; duy trì và phát triển hoạt động đánh bạc” cụ thể như sau:

Các hành vi khác nhằm quản lý, điều hành; duy trì và phát triển hoạt động đánh bạc gồm:

- Các hành vi về quản lý, điều hành sòng bạc bao gồm: các biện pháp đảm bảo an ninh và an toàn cho người đánh bạc; phân công nhiệm vụ và trách nhiệm của nhân viên; quản lý tài chính, kiểm soát người đánh bạc, thu phí; thiết lập các quy định nội bộ và kiểm soát hoạt động đánh bạc.

- Các hành vi nhằm duy trì hoạt động đánh bạc: hỗ trợ cung cấp tài chính như cho vay, mượn tiền… dịch vụ lưu trú và các tiện ích khác phục vụ người đánh bạc.

- Các hành vi nhằm phát triển hoạt động đánh bạc: tổ chức các sự kiện đánh bạc; thiết lập và duy trì các hệ thống công nghệ cho hoạt động đánh bạc trực tuyến như  phát triển phần mềm và quản lý cơ sở dữ liệu.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 14/3/2023 của TAND tỉnh B.

2. Bản án số 66/2023/HS-ST ngày 22/9/2023 của TAND huyện T, tỉnh T.

3. Bản án số 45/2020/HS-ST ngày 25/6/2020 của TAND thành phố H.

4. Bản án số 35/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của TAND tỉnh L

5. Bản án số 45/2021/HS-ST ngày 12/10/2021 của TAND huyện P, thành phố C.

6, GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB tư pháp, Hà Nội;

7, PGS. TS. Dương Tuyết Miên (2022), Định tội danh và quyết định hình phạt, NXB Tư pháp, Hà Nội;

8, Lương Hải Yến, (2023), Giải pháp thực hiện quy định pháp luật hình sự về tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc, gá bạc, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 02 (64), tr.25-31;

9, Nguyễn Đức Hưng, (2022), Tội phạm đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 10, tr.24-28;

10, Lê Văn Quang, (2019), Những vướng mắc khi xử lý hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc, Tạp chí Kiểm sát số 24, tr.40-46;

11, Hoàng Thị Kim Ngân, Áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 hay điểm đ khoản 1 Điều 322 Bộ luật Hình sự trong vụ án Tổ chức đánh bạc tại huyện Văn Chấn, https://vienkiemsatyenbai.gov.vn/ap-dung-diem-h-khoan-1-dieu-52-hay-diem-d-khoan-1-dieu-322-bo-luat-hinh-su-trong-vu-an-to-chuc-danh-bac-tai-huyen-van-chan/

12, Nguyễn Thanh Toàn, Trao đổi về xác định đồng phạm tội đánh bạc, https://kiemsat.vn/trao-doi-ve-xac-dinh-dong-pham-toi-danh-bac-49750.html


[1] Bản án Hình sự phúc thẩm số 14/2024/HS-ST ngày 14/3/2023 của TAND tỉnh B.

[2] Bản án Hình sự sơ thẩm số 66/2023/HS-ST ngày 22/9/2023 của TAND huyện T, tỉnh T.

[3] Chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015

[4] Chương XX Bộ luật Hình sự năm 2015

[5] Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015

[6] Bản án Hình sự sơ thẩm số 45/2020/HS-PT ngày 25/6/2020 của TAND thành phố H.

[7] Bản án hình sự phúc thẩm số 35/2023/HS-ST ngày 21 tháng 3 năm 2023 của TAND tỉnh L.

[8] Bản án Hình sự sơ thẩm số 45/2021/HSST ngày 12/10/2021 của TAND huyện P, thành phố C.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.

TS. Nguyễn Thị Ánh Hồng (Trường ĐH Luật Tp.HCM) - Lê Thị Thu Trang (TAND tỉnh Tây Ninh)