Những vấn đề pháp lý về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị tinh thần cốt lõi của mỗi cá nhân, được Hiến pháp và Bộ luật Dân sự ghi nhận, bảo vệ. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và mạng xã hội, các hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm ngày càng gia tăng, diễn biến phức tạp và để lại hậu quả nghiêm trọng cho người bị hại.

1. Quy định của pháp luật về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm

Khoản 1 Điều 20 Hiến Pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”.

Cụ thể hóa tinh thần của Hiến Pháp năm 2013, khoản 1 Điều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rất rõ, theo đó: “Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”. Như vậy theo quy định trên đã trao cho cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

Hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể thực hiện bằng lời nói hoặc bằng hành động. Thông thường được thể hiện qua lời nói và hành động được sử dụng có tính chất sỉ nhục, lăng mạ, chửi bới một cách tục tĩu, miệt thị nhằm gây tổn hại nghiêm trọng đến danh tiếng, uy tín, phẩm giá của người khác. Ngoài ra, nếu cá nhân cố tình tự đặt ra các thông tin không đúng, bịa đặt hoặc lan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vu khống” theo Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cơ sở xác định hành vi xúc phạm danh dự nhân phẩm có thể dưới những dạng khác nhau như: nói trực tiếp hoặc qua điện thoại, qua tin nhắn…

2. Một số bất cập của pháp luật về hành vi xúc phạm, danh dự nhân phẩm

Thứ nhất, khó khăn trong thu thập chứng cứ

Thực tiễn hiện nay, hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm bằng lời nói trực tiếp lại xảy ra khá phổ biến hơn nhưng khó có cơ sở để xử lý hơn so với thông qua clip, ghi âm, tin nhắn, hoặc trên các trang mạng xã hội vì các lý do sau:

- Thiếu chứng cứ khách quan: Lời nói thường chỉ tồn tại trong khoảnh khắc, không để lại dấu vết vật chất. Nếu không có ghi âm, ghi hình thì rất khó chứng minh hành vi đã xảy ra. Người yêu cầu phải chứng minh được hành vi xúc phạm (clip, ghi âm, nhân chứng, bài viết...). Đây là vấn đề khó trong thực tiễn nếu chỉ có lời nói trực tiếp mà không có bằng chứng đối chứng; vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường gặp khó khăn khi xử lý.

- Chủ yếu dựa vào lời khai: Cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể căn cứ vào lời trình bày của các bên và nhân chứng, nhưng nhân chứng thường e ngại hoặc không khách quan.

- Khó xác định đánh giá mức độ nghiêm trọng: Lời nói xúc phạm có thể mang tính trêu chọc, chửi bới thông thường hay thật sự xúc phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm - việc đánh giá này thường mang tính chủ quan.

- Dễ phát sinh tranh cãi đối chất: Người bị tố cáo có thể phủ nhận, làm giảm giá trị chứng minh.

 Người yêu cầu phải chứng minh được hành vi xúc phạm (clip, ghi âm, nhân chứng, bài viết...). Đây là vấn đề khó trong thực tiễn nếu chỉ có lời nói trực tiếp mà không có bằng chứng đối chứng; vì vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng thường gặp khó khăn khi xử lý. Thực tiễn xét xử, trong một số trường hợp Tòa bác yêu cầu với lý do chứng cứ yếu1.

Thứ hai, chồng chéo giữa xử lý dân sự - hành chính - hình sự

Pháp luật quy định tùy theo mức độ và tính chất của hành vi xúc phạm, đả kích, làm nhục người khác sẽ bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Cụ thể về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự an toàn xã hội theo điểm a khoản 3 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi “Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác”.

Trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử theo điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính Cá nhân có thể bị xử phạt số tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với hành vi: “Cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân”.

Còn về trách nhiệm hình sự thì nếu một cá nhân có hành vi công khai xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người khác nhằm mục đích hạ thấp nhân cách, uy tín của người đó thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Làm nhục người khác” theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm”.

Vấn đề đặt ra ở đây là có sự chồng chéo giữa xử lý dân sự, hành chính, hình sự: một hành vi có thể bị xử lý ở cả 3 lĩnh vực, nhưng ranh giới giữa “mức độ nghiêm trọng” (xử lý hình sự) và nhẹ” (xử lý dân sự/hành chính) chưa được quy định rõ ràng dễ dẫn đến tình trạng bỏ lọt hoặc xử lý không thống nhất.

Thứ ba, khó chứng minh thiệt hại tinh thần

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định mức bồi thường tối đa (10 lần lương cơ sở), nhưng chưa có tiêu chí rõ ràng để xác định mức độ tổn thương tinh thần. Khi các bên không thỏa thuận Tòa án thường áp dụng là không quá 10 lần mức lương cơ sở2. Với quy định mức bồi thường như trên trong một số trường hợp là thấp, chưa tương xứng, không đủ sức răn đe, nhất là với hành vi xúc phạm có quy mô lớn (ví dụ: đối với các hành vi bôi nhọ uy tín trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội, doanh nghiệp bị ảnh hưởng uy tín).

3. Kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại tinh thần

Xây dựng tiêu chí đánh giá mức độ tổn thương tinh thần: dựa vào hậu quả thực tế, phạm vi ảnh hưởng, mức độ lan truyền thông tin...

Nâng mức bồi thường tổn thất tinh thần, bỏ cơ chế “khung cứng” 10 lần lương cơ sở như hiện tại, thay bằng cơ chế mở, gắn với thiệt hại thực tế và tính chất vụ việc.

Thứ hai, phân định rõ ranh giới trách nhiệm pháp lý

Bổ sung hướng dẫn quy định cụ thể để phân biệt trường hợp xử lý dân sự, hành chính, hình sự, tránh chồng chéo hoặc bỏ lọt hành vi như hiện nay.

Thứ ba, tăng cường cơ chế thu thập và bảo toàn chứng cứ

Cho phép Tòa án, cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: phong tỏa, sao lưu dữ liệu điện tử, yêu cầu mạng xã hội, báo chí gỡ bỏ thông tin.

Bổ sung cơ chế bảo vệ người tố cáo, nhân chứng trong các vụ việc xúc phạm nhân phẩm. Theo pháp luật của Hoa Kỳ, EU: Nhân chứng trong các vụ án liên quan đến tội phạm xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quấy rối đều có thể được bảo vệ bằng chương trình Witness Protection Program (thậm chí thay đổi danh tính trong trường hợp nguy hiểm)3. Cần có cơ chế cấm tiếp xúc, cấm liên lạc được áp dụng ngay cả trong các vụ việc bạo lực tinh thần, xúc phạm nhân phẩm.

Bên cạnh cơ chế bảo vệ, kiến nghị bổ sung chế tài đủ mạnh đối với các hành vi trả thù, uy hiếp nhân chứng và người tố cáo, coi đây là một tình tiết tăng nặng trong xử lý hành chính hoặc hình sự.

Kết luận: Quy định của Bộ luật Dân sự 2015 đã đặt nền tảng quan trọng cho việc bảo vệ quyền về danh dự, nhân phẩm, uy tín, song còn nhiều bất cập về mức bồi thường, cơ chế chứng minh và biện pháp bảo vệ khẩn cấp. Việc hoàn thiện pháp luật cần theo hướng tăng tính khả thi, mở rộng phạm vi bồi thường, quy định rõ ràng ranh giới trách nhiệm pháp lý và tăng cường biện pháp khẩn cấp nhằm bảo vệ nạn nhân một cách hiệu quả.

 

 

TRẦN THỊ CẨM VÂN (Khoa Luật Kinh tế - Trường Đại học Phan Thiết) - NGUYỄN THỊ KIM QUYÊN (Phòng Hành chính - Tổng hợp, Trường Đại học Phan Thiết)

Tài liệu tham khảo

1. Hiến Pháp năm 2013.

2. Bộ Luật Dân sự năm 2015.

3. Bộ Luật Hình sự 2015.

4. Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.

5. Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình.


1 Bản án số 1215/2023/DS-PT ngày 19/12/2023 của TAND TP. H về tranh chấp bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

2 Bản án 172/2024/DS-PT ngày 13/03/2024 của TAND TP. H về tranh chấp yêu cầu bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.

3 Britannica, Witness protection program, https://www.britannica.com/topic/witness-protection-program, truy cập ngày 01/9/2025.

Công an xã Bắc Thái Ninh (Hưng Yên) làm việc với công dân có hành vi xúc phạm danh dự người khác trên mạng xã hội - Ảnh: CQCA.