Phát huy truyền thống Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C-SL thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Toà án nhân dân ngày nay. Trải qua 79 năm xây dựng và phát triển, hệ thống Tòa án nhân dân đã xây đắp nên một truyền thống vẻ vang.

Xây dựng và trưởng thành

Ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 33C-SL thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Toà án nhân dân ngày nay. Theo quy định của Sắc lệnh nói trên, Toà án quân sự ở Bắc bộ tổ chức tại: Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Ninh Bình; ở Trung bộ tại các địa phương: Vinh, Huế, Quảng Ngãi; ở Nam bộ gồm: Sài Gòn, Mỹ Tho. Các Toà án quân sự được thành lập có nhiệm vụ "Xét xử tất cả các người nào phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà".

Ngày 24/1/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ban hành Sắc lệnh số 13-SL về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm phán. Đây là Sắc lệnh đầu tiên quy định đầy đủ về hệ thống tổ chức, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp, việc xử phạt vi cảnh ở cơ sở và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán.

Hệ thống Toà án sau này được đổi tên thành Toà án nhân dân gồm: các Toà án sơ cấp (quận, phủ, huyện, châu), các Toà án đệ nhị cấp (ở cấp tỉnh) và ba Toà Thượng thẩm (ở Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ). Trong thời gian từ năm 1946 đến năm 1954 là thời kỳ đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ, để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn này, hệ thống các Toà án còn bao gồm các Toà án binh, được thành lập theo Sắc lệnh số 163 ngày 23/6/1946 và các Toà án nhân dân đặc biệt ở những nơi cải cách ruộng đất, được thành lập theo Sắc lệnh số 150 ngày 12/4/1953.

Ngày 14/7/1960, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Toà án nhân dân. Hệ thống các Toà án được tổ chức từ trung ương đến địa phương bao gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương (Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân ở các khu tự trị) và các Toà án quân sự (trong đó, Toà án quân sự cấp cao thuộc Toà án nhân dân tối cao).

Toà án nhân dân tối cao không còn trực thuộc Hội đồng Chính phủ mà chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phương do Toà án nhân dân tối cao đảm nhiệm (do Bộ Tư pháp được giải thể theo Luật tổ chức Hội đồng Chính phủ năm 1960) và theo phương thức song trùng lãnh đạo (khác với thời kỳ trước năm 1960, việc quản lý các Tòa án nhân dân địa phương được giao cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp đảm nhiệm). Toà án nhân dân tối cao quản lý về tổ chức bộ máy, biên chế, hướng dẫn các Toà án nhân dân địa phương và các Toà án quân sự áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử và giám đốc công tác xét xử của các Toà án.

Uỷ ban nhân dân địa phương có trách nhiệm sắp xếp nhân sự và cấp kinh phí hoạt động cho các Toà án nhân dân địa phương. Tổ chức và hoạt động của các Toà án đã bảo đảm có sự tham gia của nhân dân, thể hiện thông qua chế độ bầu cử Thẩm phán và thực hiện nguyên tắc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia và chiếm đa số trong thành phần Hội đồng xét xử.

Những bước phát triển mới

Từ ngày 30/4/1975, hệ thống các Toà án trong cả nước vẫn được tổ chức và hoạt động theo Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, sau đó đã qua các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1981, 1992 và 2002. Từ năm 1981 đến trước năm 2002, công tác quản lý Tòa án nhân dân địa phương lại được giao cho Bộ Tư pháp sau khi Bộ này được tái thành lập. Sau đó, từ năm 2002, theo quy định của Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, công tác quản lý các Tòa án nhân dân địa phương được giao cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện, có sự phối hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân địa phương.

Ngày 24/11/2014, Quốc hội thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Tổ chức Tòa án có sự thay đổi căn bản, hệ thống Tòa án từ 03 cấp (Tòa án nhân dân tối cao-Tòa án nhân dân cấp tỉnh-Tòa án nhân dân cấp huyện) thành 04 cấp (Tòa án nhân dân tối cao-Tòa án nhân dân cấp cao-Tòa án nhân dân cấp tỉnh-Tòa án nhân dân cấp huyện), cụ thể gồm:

- Toà án nhân dân tối cao: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, 14 đơn vị trong bộ máy giúp việc trực thuộc Toà án nhân dân tối cao; Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng (Học viện Tòa án);

- 3 Tòa án nhân dân cấp cao tại (Hà Nội, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh);

- 63 đơn vị Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

- 710 đơn vị Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh.

- Các Tòa án quân sự: Toà án quân sự trung ương; 09 Toà án quân sự quân khu và tương đương; 10 Toà án quân sự khu vực.

Ngày 24/6/2024, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) năm 2024; đây là một đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; thể chế hoá các chủ trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, hiệu lực cao. Một trong điểm mới của Luật (sửa đổi) lần này là thành lập thêm các Tòa án nhân dân sơ thẩm chuyên biệt trong hệ thống Toà án nhân dân.

Công trình trụ sở mới TANDTC tại 43 Hai Bà Trưng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội  

Trải qua quá trình gần 80 năm xây dựng và phát triển, trong thời kỳ kháng chiến cũng như trong hoà bình xây dựng đất nước, trong thời kỳ đổi mới, các cấp Toà án luôn có nhiều cố gắng, vượt qua mọi khó khăn, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, tận tụy phục vụ nhân dân; quán triệt và thực hiện nghiêm túc chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xứng đáng là công cụ sắc bén của chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm nghiêm trị bọn phản cách mạng, ngăn chặn có hiệu quả các tư tưởng, hành vi sai trái làm phương hại đến lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân, trừng trị nghiêm minh các tội phạm khác; kết hợp tốt quan điểm trừng trị với giáo dục; giải quyết tốt các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Phát huy truyền thống vẻ vang

Phát huy truyền thống vẻ vang của các thế hệ cán bộ, công chức, người lao động, Toà án nhân dân các cấp qua 79 năm xây dựng và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban cán sự đảng, lãnh đạo Toà án nhân dân tối cao, trong thời gian qua, toàn thể Thẩm phán, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Toà án nhân dân đã tích cực thực hiện có hiệu quả phong trào thi đua với chủ đề xuyên suốt “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân” và đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Toà án nhân dân các cấp”; cùng với phong trào thi đua “vì công lý” với chủ đề hành động “Trách nhiệm, kỷ cương, chất lượng, vì công lý” được phát động và tổ chức thực hiện tại Đại hội thi đua yêu nước của Tòa án nhân dân lần thứ IV năm 2020, phong trào thi đua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 đã cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân, đó là: “Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp; Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bằng hoạt động của mình, Toà án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác”.

Với những thành tích đóng góp to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống Toà án nhân dân, Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tặng thưởng “Huân chương Hồ Chí Minh” lần thứ nhất cho Toà án nhân dân năm 1985. Toà án quân sự trung ương cũng đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng “Huân chương Quân công” hạng nhì năm 1984, “Huân chương Độc lập” hạng ba năm 1995 và “Huân chương Quân công” hạng nhất năm 2002. Đặc biệt, năm 2005 nhân dịp kỷ niệm 60 năm ngày truyền thống Toà án nhân dân, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định tặng thưởng “Huân chương Sao vàng” cho Toà án nhân dân; kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Tòa án nhân dân được tặng thưởng “Huân chương Hồ Chí Minh” lần thứ hai năm 2015; Kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống Tòa án nhân dân được tặng thưởng “Huân chương Độc lập” hạng Nhất.

LÊ XUÂN

Trụ sở mới TANDTC tại 48 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội