Thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc xem xét đánh giá chứng cứ thu thập được tại phiên tòa phúc thẩm
Qua bài viết “Giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ theo Điều 305 BLTTHS” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử ngày 26/12/2020, tác giả trao đổi về thẩm quyền, trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc xem xét đánh giá chứng cứ thu thập được tại phiên tòa phúc thẩm.
Qua đọc bài viết của tác giả Trần Xuân Hải tôi hoàn toàn đồng tình với quan điểm của tác giả ở nội dung: Tên của Điều 305 là “giải quyết yêu cầu về xem xét chứng cứ” nhưng tại phần nội dung ghi là quyền “yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét”. Như vậy là chưa thống nhất về mặt từ ngữ vì chứng cứ theo Điều 86 BLTTHS “là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”, còn vật chứng, tài liệu theo Điều 87 BLTTHS là một trong những nguồn chứng cứ. Do đó cần thống nhất về mặt từ ngữ là “yêu cầu đưa thêm chứng cứ”.
Thực tiễn xét xử một số vụ án hình sự ở cấp phúc thẩm có xuất hiện một số tình huống như sau: Bị cáo M và chị H là vợ chồng đã ly hôn từ năm 2017 nhưng vẫn đang ở chung. Trong quá trình ở chung, hai bên thường xuyên mâu thuẫn, xô xát lẫn nhau. Khoảng 19 giờ ngày 27/4/2020, bị cáo M đi ăn giỗ ở trong thôn về nhà thì nhớ chuyện chị H có nhắn tin xúc phạm gia đình M nên khi thấy chị H, M liền hỏi “Tại sao mày chửi ngoài nhà tau” thì giữa hai người xảy ra cãi vã nhau. M đã dùng tay trái đấm thẳng vào mặt chị H. Chị H bị đau và bỏ chạy được khoảng 15 mét thì ngất xỉu và được người dân trong thôn đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện. Kết luận giám định chị H thương tích gây nên hiện tại là 12%. Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2020/HS-ST ngày 25/9/2020 của Tòa án huyện T căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt: Trương Văn Minh 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích". Ở giai đoạn sơ thẩm, cơ quan tố tụng chưa làm rõ được nội dung tin nhắn xúc phạm của chị H nên cấp sơ thẩm xác định hành vi của bị cáo M có tính chất côn đồ nên bị xét xử theo điểm đ khoản 2 Điều 134. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo M đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập chi T (em gái bị cáo M), là người đã nhắn tin qua lại với chị H nên có các nội dung tin nhắn chị H xúc phạm gia đình bị cáo M. Hội đồng xét xử phúc thẩm đã triệu tập chị T đến tham gia phiên tòa. Tại phiên tòa, chị T đã cung cấp nội dung tin nhắn qua lại giữa chị T với chị H. Người bị hại là chị H cũng thừa nhận nội dung tin nhắn là có thật. Sau khi tiếp nhận chứng cứ mới là các bản in tin nhắn do chị T cung cấp, Hội đồng xét xử đã tạm ngưng phiên tòa trong thời hạn 5 ngày để chuyển chứng cứ mới này cho VKS cùng cấp. Qua xem xét, đánh giá chứng cứ mới thu thập thấy tin nhắn có nội dung xúc phạm gia đình bị cáo M, đây chính là nguyên nhân, động cơ, mục đích mà bị cáo M gây ra thương tích chi chị H. Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định hành vi gây thương tích của bị cáo M là có nguyên cớ, mâu thuẫn, do đó không có tính chất côn đồ như cấp sơ thẩm đã quy kết. Đồng thời, tại phiên tòa phúc thẩm, người bị hại là chị H có đơn xin rút yêu cầu khởi tố đối với bị cáo M. Để giải quyết tình huống này, có hai quan điểm như sau:
Thứ nhất: Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã quy kết hành vi của bị cáo M là có tinh chất côn đồ nhưng chưa điều tra làm rõ nguyên nhân, động cơ, mục đích bị cáo M gây thương tích cho chị H. Cơ quan điều tra cấp sơ thẩm cũng chưa xác định chị T là người làm chứng để thu thập chứng cứ làm rõ nội dung tin nhắn như lời khai của bị cáo M. Bản thân bị hại là chị H cũng khai là có nhắn tin nhưng cho rằng nội dung tin nhắn không xúc phạm gia đình bị cáo M. Lẽ ra, ở giai đoạn sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm cần áp dụng quy định tại điểm e và điểm k khoản 2 Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017 để trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, yêu cầu làm rõ nguyên nhân, điều kiện, động cơ, mục đích dẫn đến việc chủ thể thực hiện hành vi phạm tội để từ đó xác định tính chất, mức độ của tội phạm. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã làm rõ nội dung tin nhắn, chị H thừa nhận chứng cứ mới này. Đây là cơ sở để xác định nguyên nhân, động cơ bị cáo M gây thương tích cho chị H. Do đó, xác định hành vi của bị cáo M không có tính chất côn đồ như cấp sơ thẩm quy kết. Chứng cứ mới này đã làm thay đổi bản chất vụ án. Do đây là tình huống thuộc trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm cần áp dụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 355 BLTTHS hủy án bản sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.
Thứ hai, Hội đồng xét xử trên cơ sở đề nghị của bị cáo để triệu tập thêm người làm chứng và xem xét chứng cứ mới thu thập tại phiên tòa là hoàn toàn đúng quy định tại các Điều 66, Điều 252, Điều 253, Điều 305 BLTTHS. Chứng cứ mới là nội dung tin nhắn giữa chị T và bị hại H đã được thu thập hợp lệ và làm rõ. tại phiên tòa bị hại H cũng thừa nhận nội dung tin nhắn. Do đó, việc thu thập và xem xét, đánh giá chứng cứ đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định thủ tục tố tụng. Chứng cứ mới thu thập được đủ cơ sở để Hội đồng xét phúc thẩm xác định nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo M mà không cần phải hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại. Do xác định không có tính chất côn đồ nên hành vi gây thương tích 12% của bị cáo M được truy cứu theo khoản 1 Điều 134 BLHS. Đồng thời, tại phiên tòa người bị hại là chị H đã tự nguyện rút yêu cầu khởi tố nên Hội đồng xét xử phúc thẩm tuyên hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Tác giả bài viết đồng tình với quan điểm thứ hai bởi lẽ, mặc dù theo hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm chưa làm rõ được nguyên nhân, động cơ của hành vi phạm tội để làm cơ sở cho việc xác định có tính chất côn đồ hay không. Tại phiên tòa phúc thẩm xuất hiện thêm người làm chứng mới làm thay đổi tính chất vụ án, vấn đề này đã được thu thập và làm rõ tại phiên tòa phúc thẩm, không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 280 BLTTHS. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ vụ án là đúng quy định của pháp luật.
Rất mong nhận được sự trao đổi ý kiến của các đồng nghiệp và Quý bạn đọc!.
Nhân chứng nộp chứng cứ phát sinh tại tòa - Ảnh: Đào Ngọc Thạch
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Khánh thành tượng đài “Bác Hồ với chiến sĩ biên phòng” tại cửa khẩu quốc tế Cầu Treo
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Khai mạc Festival “Về miền ví, giặm – Kết nối tinh hoa di sản”
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Hội thảo khoa học "200 ngày tập kết ra Bắc tại Cà Mau - tầm nhìn chiến lược và giá trị lịch sử"
Bình luận