Bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2015 về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm

Trong bài này, tác giả xin đề cập một số bất cập cũng như kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của BLTTHS 2015 trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Yêu cầu cải cách tư pháp đã và đang đặt ra yêu cầu liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội nói chung và bị cáo nói riêng. Mặc dù BLTTHS 2015 đã có nhiều quy định tiến bộ nhằm khắc phục những hạn chế của BLTTHS 2003. Tuy nhiên, các quy định này là chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu hiện nay.

1.Các vấn đề chưa được quy định trong BLTTHS

Thứ nhất, việc thu thập chứng cứ, tài liệu: BLTTHS đã khắc phục hạn chế của quy định trước đây là quy định cho phép người bào chữa tiến hành thu thập chứng cứ, tài liệu. Tuy nhiên, hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa hiện nay vẫn còn thụ động, nhất là trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ, cung cấp các chứng cứ họ đang nắm giữ. Bởi vì pháp luật tố tụng hình sự hiện nay chưa có quy định về trách nhiệm này cũng như các chế tài đối với các hành vi cản trở, cố tình che giấu, không cung cấp chứng cứ, tài liệu khi có yêu cầu.

Thứ hai, điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS chỉ quy định chung chung quyền của người bào chữa là “Gặp, hỏi người bị buộc tội” mà chưa quy định rõ về trình tự, thủ tục và các vấn đề liên quan khác như thời gian gặp, gặp riêng hay có sự giám sát, việc bảo đảm bí mật thông tin trao đổi giữa hai bên… Chính sự thiếu sót này đã dẫn đến tình trạng gây khó dễ cho việc gặp giữa người bào chữa và bị cáo đang bị tạm giam. Ở một số nước phát triển, pháp luật tố tụng hình sự của họ đều cho phép người bào chữa gặp riêng thân chủ của mình. Đây là quy định tiến bộ và phù hợp, cần được bổ sung vào BLTTHS nước ta.

Thứ ba, việc quy định các quyền cho người bào chữa nhưng không quy định chế tài cho hành vi vi phạm, cản trở… việc thực hiện các quyền đó là chưa đầy đủ. Do đó, cần bổ sung thêm quy định xử lý đối với các hành vi này, cụ thể có thể coi đây như trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Bởi vì hậu quả của hành vi này mang lại nhiều khi rất nghiêm trọng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người được bào chữa, thậm chí có thể dẫn đến oan sai.

Thứ tư, nếu như các quy định tại Điều 232, 238, 245 quy định bị can có quyền được biết kết quả hoạt động điều tra bổ sung thông qua việc giao nhận kết luận điều tra bổ sung, kết luận điều tra mới hoặc bản cáo trạng mới thì các quy định tại Điều 252, 284 lại không quy định cho bị cáo có quyền tương tự. Theo đó, trong trường hợp Tòa án tự bổ sung, thu thập chứng cứ hay Tòa án yêu cầu VKS thực hiện thì đều không có ghi nhận kết quả thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu có bắt buộc giao cho bị cáo hay không? Do vậy, thông thường trên thực tế bị cáo không có cơ hội tiếp cận với chứng cứ, tài liệu được bổ sung. Điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động bào chữa của chính bị cáo hay người bào chữa cho bị cáo. Do đó, cần bổ sung thêm quy định rằng “Kết quả xác minh thu thập chứng cứ bổ sung của Tòa án, VKS phải được thông báo cho bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác có liên quan”.

Những vấn đề trên không phải là tất cả để có thể lấp đầy hết những thiếu sót của BLTTHS trong việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Tuy nhiên, đây là những quy định có sự ảnh hưởng lớn đến kết quả bào chữa, do đó, việc bổ sung vào BLTTHS là cần thiết.

2.Quy định chưa phù hợp các vấn đề

Thứ nhất, Điều 72 BLTTHS quy định về những người không được bào chữa gồm: Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị kết án mà chưa được xóa án tích, đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện, giáo dục bắt buộc. Theo tác giả, quy định chưa đầy đủ, chưa thống nhất với các quy định của Luật Luật sư cũng như BLTTHS. Theo đó, một cá nhân đang bị kỷ luật buộc thôi việc hay bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề Luật sư… thì không thể tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa. Người bào chữa phải thực hiện việc đăng ký bào chữa và nếu như người đó rơi vào những trường hợp nêu trên, thì liệu họ có được chấp nhận để trở thành người bào chữa? Do đó, nên bổ sung vào quy định này những trường hợp không được bào chữa, cụ thể “người bị xử lý kỷ luật bằng hình thức buộc thôi việc mà chưa hết thời hạn 3 năm kể từ ngày có quyết định buộc thôi việc có hiệu lực, đang bị tước quyền sử dụng chứng chỉ hành nghề LS”.

Thứ hai, khoản 3 Điều 81: Trường hợp không thể thu thập  được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị  cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập. Đây là một trong những quy định tiến bộ của BLTTHS, tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc quy định như hiện nay, thì việc này khó có thể được bảo đảm bởi nó phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy nên, cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan đó đối với yêu cầu thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa.

Thứ ba, điểm đ, khoản 1, Điều 73 quy định  người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa. Mặt khác, luật lại cho phép tiếp tục xét xử trong trường hợp người bào chữa vắng mặt và người được bào chữa đồng ý; hoặc trong những trường hợp người bào chữa vắng mặt vì lý do chính đáng thì trong những trường hợp đó, người bào chữa không có quyền xem biên bản. Đây là một hạn chế của Điều 73 cần phải được sửa đổi. Tiếp thu tinh thần pháp luật từ các nền pháp luật tiến bộ, quy định trên nên được thay đổi bằng quy định “Được xem những biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình hoặc lẽ ra phải có sự tham gia của mình nhưng vì lý do chính đáng mà không thể tham gia”.

Thứ tư, Điều 291 quy định về việc có mặt của người bào chữa trong trường hợp Tòa án triệu tập lần 2 nhưng vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử là không phù hợp. Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo đang ngày càng trở nên quan trọng, do đó, việc bảo đảm có người bào chữa hoặc bản bào chữa khi xét xử là việc cần thiết. Chưa hết, người bào chữa vắng mặt lần 2 nhưng cả hai lần đều vì lý do chính đáng, bản bào chữa chưa được gửi đến Tòa án thì việc hoãn phiên tòa sẽ bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa cho bị cáo so với việc Tòa án vẫn tiếp tục mở phiên tòa. Do đó, nên sửa đổi quy định trên như sau: “Nếu vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan nhưng chưa gửi trước bản bào chữa thì Tòa án hoãn phiên tòa và triệu lần hai; nếu vẫn vắng mặt có thể hoãn một lần nữa để triệu tập, kèm theo yêu cầu người bào chữa gửi bản bào chữa nếu không thể có mặt vì lý do chính đáng”.

BLTTHS 2015 không chỉ đề cao việc bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo mà vấn đề này còn được áp dụng đối với người bị buộc tội nói chung. Trong phạm vi bài, tác giả chỉ đề cập những hạn chế cơ bản liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Mặc dù phạm vi hẹp hơn nhưng cũng có thể thấy quy định hiện nay còn khá nhiều hạn chế cần được khắc phục. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số hướng khắc phục nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.

Một phiên tòa hình sự tại Tp Huế – Ảnh: Đức Chính 

VĂN LINH ( TAQS Khu vực 2 Hải quân)