Giải quyết khó khăn, vướng mắc trong công tác cán bộ Tòa án

Trong hai ngày 16-17/4/2018, tại Hà Nội, TANDTC tổ chức Hội nghị toàn quốc về công tác cán bộ. Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án TANDTC Nguyễn Hòa Bình chủ trì Hội nghị.

Theo Báo cáo tóm tắt công tác tổ chức cán bộ của hệ thống TAND do Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Phó Chánh án TANDTC Lê Hồng Quang đã trình bày, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2015, đặt ra nhiệm vụ rất nặng nề và trong bối cảnh gặp không ít khó khăn, trở ngại về đội ngũ cán bộ. Trên cơ sở quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Ban cán sự đảng, Chỉ thị của Chánh án TANDTC thì các nhiệm vụ quan trọng về kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ của TAND các cấp đã được hoàn thành, bảo đảm ổn định về tổ chức và hoạt động. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, có những hạn chế, yếu kém, khó khăn, vướng mắc cần tập trung khắc phục có hiệu quả trong công tác tổ chức, cán bộ để tiếp tục thi hành có hiệu quả Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Các đại biểu về dự Hội nghị – Ảnh Congly

1.Những khó khăn, vướng mắc

Những khó khăn, vướng mắc tập trung cơ bản vào một số vấn đề sau đây:

a) Về tổ chức, bộ máy:

Một số quy định còn gặp khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn; tổ chức bộ máy giúp việc của các Tòa án nhân dân còn chồng chéo, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả, như:

– Theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, tại Tòa án nhân dân tối cao không tổ chức các Tòa chuyên trách. Việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (17 người) thực hiện. Giúp việc cho Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hiện nay có 3 Vụ Giám đốc kiểm tra (chỉ có các Thẩm tra viên). Căn cứ vào quy định của các luật tố tụng về tư pháp thì các loại đơn khiếu nại tư pháp sẽ vẫn chuyển đến Tòa án nhân dân tối cao. Theo dự kiến trong thời gian tới, việc xem xét, giải quyết đối với những đơn khiếu nại tư pháp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao sẽ quá tải, đồng thời, đều là các vụ việc có tính chất phức tạp nên nếu không có các Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp tại 03 Vụ Giám đốc kiểm tra thì sẽ tăng áp lực, ảnh hưởng đến chất lượng của công tác này;

– Tổ chức bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân tối cao còn nhiều bất cập; chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị còn chồng chéo chưa đáp ứng yêu cầu, nhất là trong tình hình hiện nay thực hiện chủ trương của Đảng về tinh giản biên chế, sắp xếp tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả;

– Việc gộp chức năng Tổ chức cán bộ, thanh tra và Thi đua khen thưởng thành một phòng tại Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân cấp tỉnh chưa phù hợp…; chức năng, nhiệm vụ của bộ phận hành chính-tư pháp tại các Tòa án chưa thống nhất;

– Việc tổ chức các đơn vị làm công tác Giám đốc kiểm tra tại các Tòa án nhân dân cấp cao chưa phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và chưa bảo đảm tính đồng bộ giữa các cơ quan tư pháp (Viện kiểm sát cấp cao là các Viện chuyên môn (là đơn vị cấp vụ loại II), trong khi đó ở Tòa án nhân dân cấp cao được tổ chức thành các phòng chức năng).

b) Về đội ngũ cán bộ, Thẩm phán:

– Số lượng biên chế, Thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp chưa bảo đảm đáp ứng yêu cầu theo cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của các Tòa án nhân dân được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và các đạo luật về tố tụng tư pháp (mới được Quốc hội khóa XIV thông qua, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), cùng với khối lượng công việc ngày càng gia tăng như hiện nay.

– Chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong Tòa án nhân dân các cấp chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ cán bộ, công chức nòng cốt kế cận có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ chuyên gia đầu ngành đủ sức giải quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế còn hạn chế; còn thiếu nhiều các chức danh tư pháp, nhất là Thẩm phán ở các Tòa án nhân dân cấp huyện.

c) Về công tác cán bộ:

– Công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ ở một số Tòa án chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, nguồn cán bộ còn hạn chế, các quy trình thực hiện còn thể hiện sự lúng túng, hình thức, chưa thực chất, hiệu quả.

– Công tác thi tuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán, các chức danh lãnh đạo, quản lý còn chậm; công tác bố trí chức danh lãnh đạo chủ chốt không phải là người địa phương đang được từng bước thực hiện, tuy nhiên còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do chưa có hướng dẫn cụ thể của Trung ương.

– Về đào tạo, bồi dưỡng: chậm đổi mới, chưa đáp ứng nhu cầu của đội ngũ cán bộ và chưa thực sự gắn kết với các khâu trong công tác cán bộ, nhất là quy hoạch cán bộ. Nguồn kinh phí đào tạo, bồi dưỡng còn hạn chế.

– Về quản lý cán bộ: ở một số Tòa án công tác quản lý cán bộ còn lỏng lẻo, tình trạng cán bộ, Thẩm phán vi phạm kỷ luật, có một số trường hợp bị xử lý hình sự chưa chấm dứt; chưa có cơ chế kịp thời thay thế những cán bộ, công chức yếu kém, không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

– Về chế độ chính sách: chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao, chưa thể hiện tính đặc thù trong hoạt động của Tòa án nhân dân. Đây là vấn đề khó khăn không nhỏ trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ Tòa án nhân dân.

– Công tác phân cấp quản lý cán bộ còn chưa kịp thời; công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện, chưa có hướng dẫn cụ thể của Trunng ương đối với các trường hợp có vấn đề về lịch sử chính trị…

d) Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về tổ chức cán bộ và đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, giúp việc về tổ chức cán bộ còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.

đ) Công tác phối hợp, sự quan tâm của cấp ủy các cấp trong công tác cán bộ còn chưa thường xuyên, chặt chẽ, hiệu quả…

Nguyên nhân

a) Nguyên nhân khách quan:

– Về hệ thống pháp luật: các quy định của pháp luật hiện nay mặc dù tương đối đồng bộ nhưng vẫn còn chưa phù hợp, một số quy định khó áp dụng nhưng lại chậm được sửa đổi, bổ sung – trong đó có cả các quy định liên quan đến công tác xây dựng đội ngũ cán bộ và cả những quy định liên quan đến trách nhiệm thực thi công vụ, thậm chí còn lĩnh vực chưa có pháp luật điều chỉnh như vấn đề sử dụng sau luân chuyển, đào tạo….

– Số lượng biên chế, Thẩm phán chưa đáp ứng yêu cầu hoạt động của các Tòa án nhân dân: qua công tác thống kê thực tiễn xét xử cho thấy số lượng các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tăng hằng năm, năm sau cao hơn năm trước. Trong khi đó, số lượng biên chế 15.237 người được Ủy ban thường vụ Quốc hội phân bổ từ năm 2012, tại thời điểm đó số lượng các loại vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án các cấp phải giải quyết hơn 303.848 vụ việc/năm. Đến nay, số lượng vụ việc phải giải quyết tăng hơn 40% so với số lượng vụ việc tại thời điểm ban hành Nghị quyết số 473a/2012/NQ-UBTVQH13. Theo dự kiến khi các Luật tố tụng về tư pháp có hiệu lực pháp luật (từ ngày 01/01/2018) thì số lượng các loại vụ việc thuộc thẩm quyền phải giải quyết của Tòa án sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm 2018. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nên toàn bộ các cơ quan trong hệ thống chính trị từ nay đến năm 2021 phải thực hiện tinh giản tối thiểu 10% đội ngũ cán bộ hiện có. Do đó, mặc dù thẩm quyền được mở rộng và  số lượng các loại vụ việc tăng nhưng các Tòa án không được tăng biên chế.

– Chất lượng cán bộ, Thẩm phán còn chưa đáp ứng yêu cầu, vì những lý do như sau:

+ Mặt bằng đào tạo, kinh nghiệm và năng lực công tác trong bản thân nội tại đội ngũ cán bộ, Thẩm phán của Tòa án các cấp còn chưa đồng đều giữa các vùng, miền nhất là so với các yêu cầu của cải cách tư pháp hiện nay (như: năng lực, kinh nghiệm, khả năng xử lý, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước…). Tính đến nay, 100% Thẩm phán Tòa án các cấp có trình độ cử nhân luật, nhưng số được đào tạo chính quy về chuyên môn, nghiệp vụ chỉ chiếm gần 35%, số còn lại hầu hết được đào tạo theo loại hình tại chức, chuyên tu, luân huấn hoặc từ xa. Số Thẩm phán này được sắp xếp làm việc tại Tòa án các cấp từ những giai đoạn lịch sử trước đây, có kinh nghiệm nhưng năng lực chuyên môn, khả năng tin học, ngoại ngữ chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ; số Thẩm phán được bổ nhiệm mới trong những giai đoạn gần đây, đều được đào tạo chính quy nhưng kinh nghiệm, uy tín xét xử còn hạn chế.

+ Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, Thẩm phán nhưng do trong một giai đoạn dài (từ năm 2015 trở về trước) không có cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nên Tòa án nhân dân chưa chủ động trong công tác này, đã ảnh hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng cán bộ, Thẩm phán; bên cạnh đó, chính sách khuyến khích Thẩm phán và công chức tự học tập còn chưa làm tốt, cùng với áp lực công việc gia tăng như hiện nay, nhất là ở các Tòa án nhân dân cấp huyện đã ảnh hưởng nhiều đến việc thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ theo quy định của Nhà nước và của Tòa án nhân dân.

+ Công tác luân chuyển, điều động cán bộ, Thẩm phán giữa các Tòa án (nhất là điều chuyển về miền núi) còn gặp nhiều khó khăn do nguyên nhân cơ bản xuyên suốt là không có nhà công vụ và chính sách kèm theo luân chuyển, điều động; năng lực, kinh nghiệm đội ngũ cán bộ, Thẩm phán trong cùng một Tòa án còn chưa đồng đều, nên việc phân công nhiệm vụ còn có sự bất cập, những người có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng thường được phân công giải quyết nhiều việc hơn, nhất là những việc phức tạp so với những người khác. Bên cạnh đó, do việc xác định vị trí việc làm còn chậm đã ảnh hưởng đến công tác sắp xếp tổ chức bộ máy và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức.

b) Nguyên nhân chủ quan:

– Nhận thức và triển khai thực hiện chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân của một số cấp ủy, người đứng đầu Tòa án còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ và chưa thực sự quan tâm, đầu tư thích đáng cho công tác xây dựng Đảng, chưa thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hành dân chủ trong Đảng; chất lượng công tác tư tưởng, tuyên truyền còn hạn chế; phong cách, lề lối làm việc chưa được đổi mới.

– Do làm chưa tốt công tác tạo nguồn, quy hoạch cán bộ nên thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ có trình độ cao, có khả năng dự báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh.

– Một số cán bộ, Thẩm phán có ý thức tổ chức kỷ luật yếu, phong cách làm việc chậm đổi mới, không chịu rèn luyện, tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức; do sự tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, cùng với chính sách tiền lương thấp, một số ít Thẩm phán và công chức bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, có biểu hiện sa ngã, vi phạm quy chế nghề nghiệp, cá biệt có trường hợp đã bị xử lý về hình sự theo quy định của pháp luật.

– Một số Chánh án Tòa án chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm người đứng đầu, năng lực quản lý, điều hành yếu dẫn đến việc mất đoàn kết nội bộ, chính sách cán bộ chưa được bảo đảm, chất lượng hoạt động công vụ chưa đáp ứng yêu cầu.

– Công tác bổ nhiệm Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án còn chậm, vì những lý do sau:

Thứ nhất, về phía Tòa án nhân dân tối cao.

+ Sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng của Tòa án nhân dân tối cao trong công tác thẩm định hồ sơ còn làm chưa tốt (chưa có quy chế phối hợp), dẫn đến tình trạng chậm chễ và thiếu đồng bộ.

+ Quy trình làm việc tại các đơn vị chức năng chưa khoa học, chất lượng đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ; số lượng cán bộ làm công tác thẩm định hồ sơ ở Vụ Tổ chức – Cán bộ Tòa án nhân dân tối cao còn mỏng (chỉ có 7 người), một số cán bộ làm công tác thẩm định hồ sơ còn làm chưa hết trách nhiệm hoặc năng lực thẩm định hồ sơ còn yếu.

Thứ hai, về phía các Tòa án nhân dân cấp tỉnh.

+ Việc lập hồ sơ đề nghị bổ nhiệm, bổ nhiệm lại Thẩm phán, Chánh án, Phó Chánh án của nhiều Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện chưa đúng quy định, còn nhiều sai sót, gây mất nhiều thời gian trong thẩm định hồ sơ.

+ Hồ sơ đề nghị bổ nhiệm lại Thẩm phán của nhiều Tòa án gửi không đúng thời hạn (trước khi hết nhiệm kỳ 3 tháng); hồ sơ thiếu các tài liệu, giấy tờ, nhất là việc thiếu ý kiến cấp ủy cùng cấp; việc kê khai số lượng án bị hủy trong nhiệm kỳ của một số Thẩm phán không chính xác gây khó khăn cho công tác thẩm định hồ sơ. Khi Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu bổ sung những thiếu sót về thủ tục, hồ sơ nhiều Tòa án thực hiện bổ sung chậm, có trường hợp khi bổ sung tài liệu vẫn tiếp tục có thiếu sót, chưa đúng quy định.

Thứ ba, các nguyên nhân khác.

+ Số Thẩm phán hết nhiệm kỳ ở những thời điểm khác nhau nên phải tập hợp hồ sơ của nhiều Tòa án để trình Hội đồng vào một cuộc họp (theo Quy chế, Hội đồng họp 3 tháng/lần). Bên cạnh đó, do các thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia là những lãnh đạo của các cơ quan, bộ, ngành làm việc kiêm nhiệm nên việc triệu tập phiên họp của Hội đồng gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ bổ nhiệm Thẩm phán.

+ Do yêu cầu bổ sung đủ Thẩm phán để thi hành các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, nên số lượng Thẩm phán được đề nghị bổ nhiệm rất nhiều, tập trung chủ yếu vào năm 2016 và 2017.

+ Một số ít tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc trung ương chưa quan tâm đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, thể hiện trong việc phối hợp trong công tác cán bộ theo thẩm quyền được phân cấp, như: có sự chậm trễ trong công tác cho ý kiến bổ nhiệm cán bộ, Thẩm phán; chưa thực sự quan tâm lựa chọn cấp ủy viên có phẩm chất, trình độ, năng lực bổ nhiệm làm Chánh án Tòa án theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị…

3.Phương hướng những năm tiếp theo

a) Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về tổ chức cán bộ gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt là một số nghị quyết, quy định mới của Đảng, đó là: các nghị quyết Trung ương 6 khóa XII về sắp xếp tổ chức, bộ máy; Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức…

b) Tiếp tục tổ chức thi hành tốt các quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Trong đó, tập trung vào một số nhiệm vụ quan trọng sau:

– Trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về tổ chức, biên chế của các Tòa án quân sự; bổ sung số lượng, cơ cấu Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp cho các Tòa án nhân dân cấp huyện;

– Tập trung nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức bộ máy giúp việc của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

c) Tiếp tục thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và Thẩm phán theo vị trí việc làm, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp.

d) Rà soát lại số lượng biên chế, đội ngũ Thẩm phán của các Tòa án nhân dân, để điều chỉnh phù hợp đối với từng Tòa án theo nhu cầu công việc; nghiên cứu, đề xuất cơ quan có thẩm quyền bổ sung cơ cấu, số lượng Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán sơ cấp cho các Tòa án nhân dân cấp huyện để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao.

đ) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ các khâu của công tác cán bộ, thực hiện nghiêm nguyên tắc “Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị”; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ.

e) Đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong quy hoạch theo chức danh cán bộ, gắn lý thuyết với thực hành và kỹ năng xử lý những tình huống nảy sinh trong thực tiễn đối với từng chức danh. Đẩy mạnh cập nhật kiến thức mới cho cán bộ quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý theo quy hoạch khắc phục tư tưởng cục bộ, khép kín.

g) Nghiên cứu, đề xuất với Ban Chỉ đạo cải cách chính sách tiền lương của Nhà nước các chế độ, chính sách của cán bộ, công chức, viên chức Tòa án phù hợp với đặc thù hoạt động.

h) Nghiên cứu, đề ra các giải pháp đột phá để đổi mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ tham mưu về công tác tổ chức cán bộ gắn với những chính sách đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, vinh danh và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.

Các nhóm giải pháp cụ thể

4.1.Nhóm giải pháp về quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng về mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ.

a) Nắm vững và quán triệt nghiêm sáu quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ theo định hướng Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

b) Thực hiện nghiêm chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức theo vị trí việc làm theo tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị.

c) Quán triệt, xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

4.2.Nhóm giải pháp về đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác cán bộ

– Phân công, xác định cụ thể, rõ ràng thẩm quyền đi đôi với trách nhiệm của người đứng đầu và tập thể lãnh đạo; trao mạnh quyền cho người đứng đầu theo nguyên tắc “Trách nhiệm phải đi đôi với thẩm quyền”.

4.3.Nhóm giải pháp về đổi mới công tác cán bộ

a) Hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ. Xây dựng và tổ chức thực hiện tốt các quy chế, quy định trong công tác cán bộ: về tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ, công chức; về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; về kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ, công chức; về kỷ luật cán bộ, công chức; về bảo vệ chính trị nội bộ…, bảo đảm sự gắn kết giữa các khâu trong công tác cán bộ.

b) Đổi mới cơ chế, phương pháp, nội dung và hình thức tuyển chọn cán bộ phù hợp với vị trí việc làm – năng lực công chức. Hoàn thiện cơ chế tuyển chọn cán bộ, thực hiện việc tuyển chọn thông qua thi cử công khai. Đồng thời, kiên quyết loại trừ các hiện tượng tiêu cực nhằm tạo sức thu hút những cá nhân có tài năng; xử lý kịp thời và nghiêm minh hành vi sai phạm của người làm công tác tuyển chọn và người đang muốn được tuyển chọn. Trên cơ sở đó, mới xây dựng được một đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, chính quy, hiện đại bao gồm những người ưu tú, đủ khả năng đảm đương các công việc của Tòa án trong điều kiện hiện nay.

c) Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các khâu trong công tác cán bộ

– Thực hiện rà soát để bào đảm bố trí, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ có hiệu quả: Định kỳ hằng năm và theo từng giai đoạn, để bố trí, sắp xếp và sử dụng cán bộ, Thẩm phán bảo đảm phù hợp với năng lực, sở trường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị; đồng thời, để chủ động bố trí, sắp xếp cán bộ, Thẩm phán có năng lực, triển vọng đảm nhiệm các công việc quan trọng, nhất là đối với diện quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý. Đồng thời, kiên quyết thay thế, miễn nhiệm những cán bộ, Thẩm phán (kể cả cán bộ lãnh đạo) năng lực yếu kém, thường xuyên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc có tham nhũng, tiêu cực.

– Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ. Xác định rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của các khâu trong công tác cán bộ (phân loại, đánh giá cán bộ là tiền đề, quy hoạch cán bộ là nền tảng, luân chuyển cán bộ là đột phá và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là yêu cầu vừa cấp bách vừa lâu dài).

– Nâng cao chất lượng công tác bổ nhiệm, đề bạt cán bộ.

d) Đổi mới, tăng cường và tạo sự chuyển biến sâu sắc trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, Thẩm phán: Đây là giải pháp quan trọng có tính quyết định để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án.

đ) Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chế độ, chính sách đối với cán bộ, Thẩm phán Tòa án nhân dân

Chế độ chính sách, tiền lương là một trong những vấn đề bảo đảm tính độc lập của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán Tòa án trong quá trình họ thực hiện chức trách của mình. Chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ cần bảo đảm cho cán bộ, Thẩm phán không phải lo mưu sinh, để họ và gia đình có thể sống đầy đủ bằng chính đồng lương, không bị phụ thuộc vào những tác động vật chất từ phía các cá nhân, tổ chức liên quan đến thực thi công vụ của họ. Chế độ tiền lương của cán bộ, Thẩm phán Tòa án ở nước ta tuy đã được quan tâm nhưng so với yêu cầu, nhiệm vụ hiện nay thì còn nhiều bất cập, chưa tính toán đầy đủ tới đặc thù của hoạt động Tòa án.

e) Đổi mới và chỉnh đốn tổ chức bộ máy tham mưu về công tác tổ chức cán bộ; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về tổ chức cán bộ

Để bảo đảm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân thì việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy tham mưu về công tác cán bộ là yêu cầu cấp thiết. Trên cơ sở Chiến lược cán bộ của Đảng, việc xây dựng tổ chức bộ máy tham mưu về công tác cán bộ được xác định như sau:

Một là, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác của cơ quan tham mưu về công tác tổ chức cán bộ: Bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ phải đảm bảo tinh, gọn, hoạt động thật sự có hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, chưa thật rõ trách nhiệm, chưa thật nắm chắc cán bộ, không ít thời gian bị hút vào giải quyết sự vụ.

Hai là, xây dựng tiêu chuẩn chức danh cán bộ làm công tác tổ chức cán bộ trên cơ sở cụ thể hoá tiêu chuẩn chung.

Ba là, tăng cường sự lãnh đạo của Ban cán sự đảng đối với bộ máy làm công tác tổ chức cán bộ. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp Tòa án, mỗi đơn vị phải trực tiếp chăm lo công tác cán bộ.

Bốn là, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, chú trọng tổng kết thực tiễn về công tác tổ chức cán bộ. Đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ đòi hỏi không chỉ sát thực tiễn, có trình độ, nhanh nhạy nắm bắt những vấn đề về đường lối, chính sách, nhất là về đổi mới kinh tế của Đảng, Nhà nước, mà còn hiểu biết nhiều lĩnh vực ở trong nước và nước ngoài.

4.4. Nhóm giải pháp về tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng;   quản lý cán bộ, tăng cường kỷ luật công vụ gắn với kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm những cán bộ, Thẩm phán có vi phạm

Để tiếp tục thực hiện tốt công tác này, cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:

a) Hoàn chỉnh các quy định về quyền hạn, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu Tòa án các cấp trong giáo dục, quản lý cán bộ. Tăng cường công tác kiểm tra của cấp ủy cấp trên đối với cấp dưới. Kịp thời kiểm tra, kết luận các vụ việc có liên quan đến lịch sử chính trị hoặc chính trị hiện nay của cán bộ. Xử lý nghiêm những tập thể và cá nhân có sai phạm trong quản lý, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.

b) Tăng cường trau dồi phẩm chất, đạo đức và nâng cao năng lực nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, Thẩm phán gắn với công tác giáo dục chính trị tư tưởng và quản lý cán bộ.

4.5.Nhóm giải pháp về bảo đảm cơ sở vật chất, trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho Tòa án

Việc bảo đảm cơ sở vật chất, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho cán bộ Tòa án nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay đang là vấn đề lớn, hệ trọng và phức tạp. Bên cạnh thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, trở ngại, vì vậy, rất cần có sự đồng thuận của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, phải rất quyết tâm và coi đó là nhiệm vụ chính trị của toàn hệ thống thì mới có thể thực hiện thành công nhiệm vụ quan trọng này.

Trước hết, Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục bám sát các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có quyết tâm chính trị cao trong công tác chỉ đạo xây dựng phương án tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở, phương tiện và trang thiết bị làm việc cho Tòa án nhân dân các cấp.

Thứ hai, tập trung kinh phí và rà soát, xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới hoặc sữa chữa cải tạo trụ sở làm việc cho các Tòa án nhân dân, đảm bảo các tiêu chí về diện tích đất theo định hướng chung, đặc biệt đối với các Toà án nhân dân chưa có trụ sở. Phối hợp với các cơ quan, bộ, ngành chức năng xây dựng các định mức, tiêu chuẩn phòng làm việc, trang thiết bị, phương tiện cho từng chức danh cán bộ theo đặc thù Tòa án.

Thứ ba, phát triển việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của Tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại hóa về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; hệ thống các phần mềm ứng dụng chuyên biệt của Tòa án có đủ về số lượng với công nghệ hiện đại, thuận tiện, dễ sử dụng, bảo đảm phục vụ cho việc chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp chủ yếu thông qua hệ thống mạng máy tính, đáp ứng các yêu cầu về công khai hoá, minh bạch hóa các hoạt động của Tòa án nhân dân.

 

THÁI VŨ