Quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2024 về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tòa án nhân dân; về Thẩm phán, Hội thẩm và các chức danh khác trong Tòa án nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Tòa án nhân dân. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 có nhiều sửa đổi, bổ sung lớn và quan trọng, trong đó có bổ sung quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp tại Điều 141.

Đặt vấn đề

Ngày 24/6/2024, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TCTAND) năm 2024 gồm 9 chương, với 152 điều, giảm 2 chương, tăng 54 điều so với Luật TCTAND năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025. Trong đó, Luật sửa đổi, bổ sung 101 điều, bổ sung mới 48 điều và giữ nguyên 3 điều. Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 quy định cho phép ghi âm toàn bộ diễn biến phiên tòa, phiên họp; việc ghi hình chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định. Việc ghi âm, ghi hình phải được sự đồng ý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp, những người có liên quan theo quy định.

1. Quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024

Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật ghi nhận quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh… Thực tế cũng cho thấy, với tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, có nhiều vụ việc được đưa tin trên báo chí, mạng xã hội một cách không chính thống, cùng với đó là dư luận từ rất nhiều người dùng mạng xã hội đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người được quy định trong Hiến pháp; đồng thời, đã tạo ra áp lực không nhỏ tác động tới người tiến hành tố tụng và có ảnh hưởng tiêu cực đến công tác xét xử, công tác tuyên truyền pháp luật. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử, sự tôn nghiêm của Tòa án, duy trì trật tự phiên tòa, phiên họp và tôn trọng quyền con người, thì việc quy định cụ thể về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của Luật TCTAND năm 2024 là phù hợp và vô cùng cần thiết.

Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp như sau:

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên được tham dự phiên tòa xét xử công khai theo quy định của pháp luật. Người dưới 16 tuổi không được vào phòng xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập đến phiên tòa.

2. Người tham dự phiên tòa, phiên họp phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nội quy phiên tòa, phiên họp.

3. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này, được thực hiện như sau:

a) Việc ghi âm lời nói được thực hiện trong thời gian diễn ra phiên tòa, phiên họp;

b) Việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định;

c) Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán quy định tại điểm a và điểm b khoản này phải được sự đồng ý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp; trường hợp ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tiến hành tố tụng khác, người tham gia phiên tòa, phiên họp thì phải được sự đồng ý của họ và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp.

4. Tòa án tiến hành ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa, phiên họp trong trường hợp cần thiết để phục vụ nhiệm vụ chuyên môn. Việc sử dụng, cung cấp kết quả ghi âm lời nói, ghi hình ảnh diễn biến phiên tòa, phiên họp được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quy định chi tiết khoản này.

5. Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được thông tin sai sự thật; không được thông tin làm ảnh hưởng đến sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, vô tư, khách quan trong xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc; không được vi phạm quyền con người của bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc; không được vi phạm quy định về giữ bí mật theo quy định của pháp luật”.

Hiện nay, quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp được quy định tại các luật về tố tụng (Điều 256 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 153 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;…) và các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng; Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế tổ chức phiên tòa;… Trên cơ sở kế thừa các quy định hiện hành, thì lần đầu tiên, việc “tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp” chính thức được quy định trong Luật TCTAND năm 2024 với nhiều điểm mới và tiến bộ. Để góp phần vào việc triển khai thi hành Luật TCTAND năm 2024 nói chung, triển khai thi hành Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 nói riêng, bài viết phân tích một số vấn đề về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp cụ thể dưới đây (bài viết không bàn về quy định tại khoản 1, 2, 4 Điều 141).

Thứ nhất, phải khẳng định rằng, Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 không quy định quyền truyền thông, mà chỉ điều chỉnh hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp. Đây là việc tổ chức xét xử của Tòa án nhằm bảo đảm cho phiên tòa được tiến hành đúng pháp luật, chất lượng, trang nghiêm. Vì vậy, quy định này chỉ điều chỉnh trong phiên tòa, phiên họp và được áp dụng đối với tất cả các đối tượng tham dự tại phiên tòa, phiên họp.

Thứ hai, quy định của Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 là quy định thể hiện sự cân bằng về quyền và nghĩa vụ của tất cả các đối tượng tham dự phiên tòa, phiên họp trong hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp, đồng thời, nhằm bảo đảm cho phiên tòa được tiến hành đúng pháp luật, chất lượng, trang nghiêm. Khẳng định như vậy bởi vì:

Khoản 2 Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác”. Như vậy, quyền của người này luôn bị giới hạn bởi quy định của pháp luật và quyền của người khác, không có quyền tuyệt đối. Thêm nữa, Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”,  do đó, việc tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Nội dung Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 đã bảo đảm được quyền con người, quyền công dân, bởi Luật đã quy định việc ghi âm lời nói được thực hiện trong thời gian diễn ra phiên tòa, phiên họp; việc ghi hình ảnh tại phiên tòa, phiên họp chỉ được thực hiện trong thời gian khai mạc phiên tòa, phiên họp và tuyên án, công bố quyết định, đây là quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng khi thực hiện quyền này thì bị giới hạn bởi quyền của người được ghi âm, ghi hình đối với hình ảnh, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh…, do đó, Luật quy định ngoài việc phải được sự đồng ý của họ, còn phải được sự đồng ý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp. Ngoài ra, người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được thông tin sai sự thật; không được thông tin làm ảnh hưởng đến sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, vô tư, khách quan trong xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc; không được vi phạm quyền con người của bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc; không được vi phạm quy định về giữ bí mật theo quy định của pháp luật.

Thêm nữa là, quá trình diễn ra phiên tòa, phiên họp, nhiều thông tin, chứng cứ được công bố tại phiên tòa, phiên họp, nhưng chưa được kiểm chứng, đặc biệt là những thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh... các thông tin, chứng cứ này cần được Hội đồng xét xử xem xét, kết luận trong bản án, quyết định. Do đó, quy định của Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 sẽ góp phần khắc phục tình trạng ghi âm, ghi hình tràn lan, sau đó đưa thông tin đã chỉnh sửa lên mạng xã hội làm ảnh hưởng đến các cá nhân, các tổ chức có liên quan, nhất là hiện nay việc xử phạt những vi phạm trên môi trường không gian mạng đang gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc.

Thứ ba, quy định này còn góp phần bảo đảm tính tôn nghiêm tại phiên tòa, tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử điều hành tốt phiên tòa, không bị phân tâm bởi các yếu tố khác. Việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác chỉ được thực hiện khi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa cho phép, nhằm bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng tập trung cao nhất cho quá trình xét xử, tránh việc làm cho Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng khác bị phân tâm, sao nhãng trong quá trình xét xử. Bởi, nếu cứ để người tham dự phiên tòa, phiên họp tự do ghi âm, ghi hình trong cả quá trình xét xử sẽ ảnh hưởng đến quá trình xét xử vì ít nhiều cũng tạo nên sự xáo trộn tại phiên tòa, phiên họp.

Thứ tư, về trách nhiệm của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đối với hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của người tham dự phiên tòa, phiên họp. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp có trách nhiệm duy trì trật tự tại phòng xử án, phòng hòa giải, đối thoại theo nội quy phiên tòa (Điều 139 Luật TCTAND năm 2024). Do đó, để thực hiện quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có trách nhiệm xem xét đề nghị được ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, người tiến hành tố tụng khác, người tham gia phiên tòa, phiên họp của người tham dự phiên tòa, phiên họp để quyết định đồng ý, hay không đồng ý cho họ được ghi âm lời nói, ghi hình ảnh theo quy định tại điểm a, b khoản 3 Điều 141 Luật TCTAND năm 2024. Để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp đưa ra quyết định đúng đắn, thì Thẩm phán phải có sự am hiểu sâu quy định pháp luật về hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp, do đó, Thẩm phán phải tự trau dồi kỹ năng, trình độ của bản thân.

Thứ năm, quyền và nghĩa vụ về hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của người tham dự phiên tòa, phiên họp. Theo quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024, thì người tham dự phiên tòa, phiên họp được thực hiện việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của Hội đồng xét xử, Thẩm phán quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 phải được sự đồng ý của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp; trường hợp ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tiến hành tố tụng khác, người tham gia phiên tòa, phiên họp thì phải được sự đồng ý của họ và Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp.

Người tham dự phiên tòa, phiên họp không được truyền phát trực tiếp, trực tuyến; không được thông tin sai sự thật; không được thông tin làm ảnh hưởng đến sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, vô tư, khách quan trong xét xử, giải quyết vụ án, vụ việc; không được vi phạm quyền con người của bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc; không được vi phạm quy định về giữ bí mật theo quy định của pháp luật.

Thứ sáu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về hoạt động thông tin tại phiên tòa cho thấy, quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 là tiến bộ và hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Báo cáo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về tổ chức và hoạt động của Tòa án của Tòa án nhân dân tối cao (tài liệu phục vụ xây dựng Luật TCTAND năm 2024) đã chỉ ra rằng: Hàn Quốc, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Úc quy định nhà báo tham gia phiên tòa chỉ được quyền ghi chép. Việc quay phim, chụp ảnh, ghi âm, phát sóng hoặc thực hiện các hành vi tương tự khác phải được sự cho phép của Chủ tọa phiên tòa. Canada quy định phóng viên có thể ghi âm, ghi hình lại quá trình tố tụng để bảo đảm tính chính xác về những thông tin về diễn biến phiên tòa, nhưng không nhằm mục đích công bố. Trong trường hợp muốn xuất bản hoặc phát sóng thì phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án trong một khoảng thời gian hợp lý và phải được sự chấp thuận của Tòa án. 

Liên minh Châu Âu, Canada, Úc và New Zealand quy định về việc đưa tin phải bảo đảm các quy định về bảo vệ quyền riêng tư và bảo vệ nhân chứng. Cần đặc biệt bảo vệ trẻ vị thành niên, những người bị tổn thương, nạn nhân, nhân chứng và gia đình của những người bị tình nghi, cáo buộc và kết án. New Zealand, Hàn Quốc quy định chủ tọa có thể xem xét các yếu tố sau khi quyết định về việc cho phép ghi âm, ghi hình tại Tòa án: quyền lợi trẻ em, ý kiến của bị cáo, bị hại, đương sự, những người tham gia tố tụng khác, tính công bằng, vai trò của truyền thông, lợi ích công cộng,…  Canada quy định Thẩm phán có quyền ban hành lệnh cấm công bố nếu việc đưa tin có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quyền được xét xử công bằng hoặc xâm phạm quyền riêng tư một cách rõ ràng. Ví dụ, trường hợp nhiều bị cáo cùng bị buộc tội về một tội danh nhưng bị xét xử riêng biệt trong các vụ án khác nhau thì Thẩm phán thường sẽ cấm công bố thông tin về phiên tòa đã được xét xử để tránh gây ra xu hướng buộc tội đối với người đang chờ xét xử. Khi quyết định áp đặt các lệnh cấm xuất bản, Thẩm phán phải cân nhắc tất cả các quy định của pháp luật và chỉ áp đặt lệnh cấm tối thiểu cần thiết để bảo vệ các quyền cơ bản. Các cơ quan báo chí, truyền thông có quyền phản đối khi Thẩm phán áp đặt lệnh cấm xuất bản không theo luật định. New Zealand quy định Thẩm phán cũng có thể thu hồi quyền đưa tin bất kỳ thời điểm nào nếu: có sự vi phạm về nguyên tắc, điều kiện cho phép đưa tin; bất kỳ bên nào trong vụ án phải chịu áp lực truyền thông vô lý bên ngoài phòng xử án; quyền được xét xử công bằng của một bên có thể hoặc sẽ bị ảnh hưởng nếu tiếp tục đưa tin; việc đưa tin về phiên tòa làm gián đoạn quá trình tố tụng.

Nhật Bản quy định nhà báo chỉ được phép chụp ảnh hoặc ghi hình Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Công tố viên, luật sư (trong vụ án hình sự) hoặc luật sư nguyên đơn, luật sư bị đơn (trong vụ án dân sự) khi đã ngồi vào vị trí bắt đầu phiên tòa. Không được phép quay phim, chụp hình các Bồi thẩm viên trong các phiên tòa xét xử có Bồi thẩm đoàn.

Úc quy định không được đưa tin về vụ án trước khi xét xử hoặc tuyên án nếu việc này có xu hướng can thiệp hoặc gây ảnh hưởng đến sự công bằng của phiên tòa, làm suy yếu nguyên tắc suy đoán vô tội, cụ thể: Không được công bố hoặc đưa tin về những tiền án của bị cáo trước khi tuyên án; không được đưa tin lời nhận tội của bị can, lời khai của nhân chứng hoặc thông tin về việc bị cáo đang phạm một tội danh khác trước khi được công bố tại phiên toà xét xử công khai; không đăng những tin không liên quan có tính chất định kiến về bị cáo trước hoặc trong khi xét xử.

Liên minh Châu Âu quy định Tòa án hỗ trợ báo chí khi phóng viên có yêu cầu và trong thời gian thích hợp như: thông báo lịch xét xử, cung cấp bản cáo trạng và các thông tin khác liên quan cho họ, trừ trường hợp không thể thực hiện được. Các nhà báo được phép nhận bản sao y của các bản án đã xét xử công khai trên cơ sở không phân biệt đối xử.

2. Hoạt động nghiệp vụ báo chí tại phiên tòa

Như trên đã nêu, quy định của Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 về hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp là quy định áp dụng cho tất cả các đối tượng tham dự phiên tòa, phiên họp, trong đó có đối tượng là nhà báo hoạt động nghiệp vụ báo chí tại phiên tòa.

 Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín, được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và các luật tố tụng. Vai trò của báo chí trong việc đưa tin, thông tin đúng quy định, chuyên nghiệp, bài bản về phiên tòa và diễn biến tại phiên tòa đã góp phần không nhỏ vào việc thực hiện xét xử công khai của Tòa án và tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Điều này có thể thấy rõ trong giai đoạn vừa qua, các vụ án lớn, án điểm, đều được báo chí chính thống thông tin chi tiết, đúng quy định đến người dân. Từ đó, người dân được tiếp cận nhiều hơn, gần hơn với pháp luật, giúp người dân hiểu biết về pháp luật hơn và hình thành ý thức pháp luật.

Chúng ta không thể phủ nhận rằng, báo chí là cơ chế giám sát xã hội, có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần bảo đảm pháp chế, từ đó nâng cao vị thế của người dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước và theo đó vai trò của tư pháp trong bảo vệ pháp luật cũng được đề cao. Ngoài thực hiện chức năng giám sát trực tiếp, thì báo chí còn là kênh thông tin thiết yếu để xã hội được biết về vụ việc, qua đó, thực hiện vai trò giám sát xã hội của mình. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều hành phiên tòa, Hội đồng xét xử và tất cả những người tham dự phiên tòa đều mong muốn hoạt động xét xử của Tòa án phải dựa trên tinh thần thượng tôn pháp luật, bảo đảm, tôn trọng quyền con người, công bằng, khách quan, nghiêm túc… Do đó, để bảo đảm cho phiên tòa được nghiêm túc, tất cả những người tham dự phiên tòa phải tuân thủ pháp luật và nội quy phiên tòa, sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Vì lẽ đó, nhà báo trong quá trình hoạt động nghiệp vụ báo chí tại phiên tòa cũng phải tuân thủ quyền và nghĩa vụ của người tham dự phiên tòa quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 mà không có ngoại lệ.

Điểm d khoản 2 Điều 25 Luật Báo chí năm 2016 quy định, nhà báo có quyền “được hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên tòa xét xử công khai” và phải thực hiện các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều 25 Luật Báo chí năm 2016. Như vậy, khi nhà báo thực hiện quyền “được hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên tòa xét xử công khai” thì cần phải tuân thủ quy định pháp luật, nội quy phiên tòa, sự điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo.

Khoản 2 Điều 13 Luật Báo chí năm 2016 quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân”. Điều 2 trong Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam quy định: “Nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Luật Báo chí năm 2016 và các quy định của pháp luật. Thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích; nội quy, quy chế của cơ quan báo chí nơi công tác”. Theo Luật Báo chí, nhà báo có quyền “được hoạt động nghiệp vụ báo chí tại các phiên tòa xét xử công khai” nhưng những người khác cũng có quyền, mà quyền rất thiêng liêng đã được Hiến pháp, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật ghi nhận đó là quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh… Do vậy, không chỉ Việt Nam, mà nhiều nước có quy định giới hạn của việc ghi âm, ghi hình tại phiên tòa, để bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

 Khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý…”.

Khoản 1 Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ”.

Đối chiếu với các quy định trên cho thấy, quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 không mâu thuẫn với Luật Báo chí năm 2016 và Bộ luật Dân sự năm 2015 về hoạt động nghiệp vụ báo chí tại phiên tòa và quyền đối với hình ảnh của tất cả những người có mặt tại phiên tòa; không hạn chế quyền hoạt động nghiệp vụ báo chí của nhà báo theo quy định của Luật Báo chí.

Trong trường hợp cần thiết, khi báo chí yêu cầu, Tòa án có thể cung cấp toàn bộ hình ảnh và diễn biến phiên tòa để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ báo chí, nhưng đồng thời phải tuân thủ đúng nguyên tắc bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

3. Một số lưu ý khi triển khai thi hành quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024

Để triển khai thi hành có hiệu quả quy định về tham dự và hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp của Luật TCTAND năm 2024, các Thẩm phán, Hội thẩm, những người tiến hành tố tụng khác nói riêng, hệ thống Tòa án nhân dân nói chung cần lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nên ban hành nghị quyết trong đó có nội dung hướng dẫn thi hành Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 quy định rõ ràng, cụ thể tiêu chí để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đồng ý cho người tham dự phiên tòa, phiên họp được hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp theo quy định pháp luật, để việc áp dụng được thống nhất trong toàn hệ thống, tránh trường hợp Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp có quyết định mang tính chủ quan, cảm tính, gây bất bình trong dư luận.

Thứ hai, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, phiên họp ngoài việc phải tự trau dồi nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để giải quyết vụ án đúng quy định pháp luật, thì còn phải nắm vững các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người tham dự phiên tòa, phiên họp khi hoạt động thông tin tại phiên tòa, phiên họp, để phổ biến cho người tham dự tại phiên tòa, phiên họp, đồng thời, để điều hành phiên tòa, phiên họp và đưa ra các quyết định cho phép hoặc không cho phép việc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh đúng quy định, duy trì trật tự phiên tòa, bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Thứ ba, việc cho phép ghi âm, ghi hình tại phiên tòa, phiên họp theo quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 sẽ góp phần lan tỏa những hình ảnh đẹp của những người bảo vệ công lý, đồng thời truyền tải những thông điệp tích cực về nền tư pháp. Do đó, các Thẩm phán, Hội thẩm và những người tiến hành tố tụng khác cần phải rèn giũa, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; thực hiện nhuần nhuyễn kỹ năng nghiệp vụ xét xử, tác phong, tư cách để xây dựng và bảo vệ hình ảnh bản thân, bảo vệ hình ảnh nền tư pháp trước truyền thông, để mỗi phát ngôn tại phiên tòa đều là chuẩn mực, thuyết phục.

Thứ tư, các cơ quan báo chí, Cổng Thông tin điện tử, các Trang thông tin điện tử của hệ thống Tòa án cần thường xuyên tuyên truyền về quy định mới của Luật TCTAND năm 2024 nói chung, quy định tại Điều 141 nói riêng, để người dân và các cơ quan báo chí trong cả nước hiểu đúng quy định của Điều luật là tiến bộ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Kết luận

Các hoạt động thông tin tại phiên tòa cũng phải tuân theo quy định của pháp luật. Tương tự, tất cả những người tham dự phiên tòa, phiên họp đều phải nghiêm chỉnh chấp hành quy định của pháp luật cũng như nội quy phiên tòa. Việc này nhằm giúp cho phiên tòa, phiên họp được tiến hành đúng pháp luật, chất lượng, trang nghiêm; đồng thời bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp, bảo đảm sự tôn nghiêm của pháp luật… Quá trình diễn ra phiên tòa, phiên họp, nhiều thông tin, chứng cứ được công bố nhưng chưa được kiểm chứng. Đặc biệt là những thông tin về đời tư cá nhân, bí mật gia đình, bí mật kinh doanh,...do đó, quy định tại Điều 141 Luật TCTAND năm 2024 là hoàn toàn phù hợp, bảo đảm cân bằng về quyền và nghĩa vụ của tất cả những người có mặt tại phiên tòa, phiên họp.

 

Tài liệu tham khảo

1. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.

2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

4. Luật Tố tụng hành chính năm 2015.

5. Bộ luật Dân sự năm 2015.

6. Luật Báo chí năm 2016.

7. Pháp lệnh số 02/2022/UBTVQH15 ngày 18/8/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng.

8. Thông tư số 02/2017/TT-TANDTC ngày 28/7/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Quy chế tổ chức phiên tòa.

9. Quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam.

10. Báo cáo của TANDTC về kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về tổ chức và hoạt động của Tòa án (Tài liệu phục vụ xây dựng Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024).

TS. NGUYỄN VĂN DU (Phó Chánh án TANDTC)

Ủy viên Ban cán sự Đảng, Phó Chánh án TANDTC Nguyễn Văn Du