Kinh nghiệm của một số quốc gia về tiền lương đối với Thẩm phán và khuyến nghị cho Việt Nam

Bài viết tổng hợp, giới thiệu kinh nghiệm quốc tế về chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp, từ đó đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi).

Tòa án nhân dân tối cao đang xây dựng và báo cáo cấp có thẩm quyền dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), dự kiến trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV. Một trong những nội sung sửa đổi, bổ sung lớn của dự thảo Luật là đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án, trong đó có chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác trong Tòa án nhân dân. 

Đặt vấn đề

Nước ta đã trải qua bốn lần cải cách chính sách tiền lương vào các năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003. Nhờ đó, tiền lương trong khu vực công (đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang nói chung, tiền lương của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác cũng như đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng) đã từng bước được cải thiện.

Bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung, chính sách tiền lương đối với Thẩm phán, các chức danh tư pháp khác cũng như đội ngũ cán bộ, công chức của hệ thống TAND về cơ bản vẫn còn một số hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tiễn, chưa tương xứng với vai trò, vị trí và chức năng mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó. Chẳng hạn, khoản 1 Điều 75, khoản 1 Điều 94 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Luật TCTAND) năm 2014 quy định: Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án. Tuy nhiên, theo bảng lương áp dụng đối với các chức danh tư pháp của TAND do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định, chế độ, tiền lương của các chức danh tư pháp lại giống với bảng lương dành cho công chức trong các cơ quan hành chính, trong đó, hệ số lương khởi điểm của Thư ký, Thẩm tra viên, Thẩm phán sơ cấp là 2,34; Thẩm phán trung cấp (được bổ nhiệm khi đã là Thẩm phán sơ cấp từ đủ 05 năm trở lên) là 4,40; Thẩm phán cao cấp (được bổ nhiệm khi đã là Thẩm phán trung cấp từ đủ 05 năm trở lên) là 6,20. Việc quy định thang bảng lương của Thẩm phán sơ cấp, Thẩm tra viên, thư ký, chuyên viên có hệ số như nhau là chưa phù hợp, chưa xem xét đến tính đặc thù, vị thế của Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác[1].

Ngày 21/5/2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Nghị quyết xác định “tiền lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính bảo đảm đời sống người lao động và gia đình người hưởng lương; “trong khu vực công, Nhà nước trả lương cho cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, phù hợp với nguồn lực của Nhà nước và nguồn thu sự nghiệp dịch vụ công, bảo đảm tương quan hợp lý với tiền lương trên thị trường lao động; thực hiện chế độ đãi ngộ, khen thưởng xứng đáng theo năng suất lao động, tạo động lực nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc cải cách hệ thống tiền lương cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác, từ năm 2018, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã chú trọng vào việc tìm hiểu, nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế đối với chế độ tiền lương cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác ở một số quốc gia như Nhật Bản, Đức, Pháp và Nga. Ngoài ra, TANDTC cũng còn  nghiên cứu tài liệu của một số quốc gia khác về vấn đề này, làm cơ sở, căn cứ đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định chế độ tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác trong hệ thống TAND Việt Nam trong bối cảnh xây dựng dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi).

1. Quy định về chế độ tiền lương cho Thẩm phán ở một số quốc gia

1.1. Quy định của Nhật Bản

Công chức tại Nhật Bản được chia làm 02 loại là công chức thông thường và công chức đặc biệt. Theo quy định tại điểm 13 khoản 3 Điều 2 Luật Công chức Nhật Bản, thì Thẩm phán được xác định là công chức đặc biệt. Các công chức còn lại của Tòa án là công chức thông thường. Để bảo đảm cho công chức Tòa án làm việc hiệu quả, tương xứng với trách nhiệm và tính chất công việc đặc thù, đồng thời, nhằm bảo đảm tính độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của hoạt động xét xử, chính sách tiền lương đối với công chức Tòa án cũng được xếp ở mức cao hơn so với công chức thông thường khác. Với tính chất đặc biệt này, lương của Thẩm phán cũng được quy định trong một luật riêng - Luật về lương của Thẩm phán.

Chế độ tiền lương cụ thể đối với Thẩm phán được điều chỉnh riêng bằng Luật về lương của Thẩm phán (1948). Theo Luật này, lương của Thẩm phán được quy định ở mức cao hơn so với công chức thông thường (do trách nhiệm cao của Thẩm phán). Nhật Bản cho rằng, việc bảo đảm chính sách tiền lương phù hợp cho hệ thống tư pháp, đặc biệt là lương của Thẩm phán sẽ là tiền đề để hệ thống tư pháp hoạt động độc lập, hiệu quả, tạo được niềm tin của công chúng và góp phần ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế. Tòa án tối cao (TATC) không được tự mình quyết định chính sách tiền lương. Luật về lương của Thẩm phán cũng không phải do Tòa án soạn thảo mà do Bộ Tư pháp soạn và trình Quốc hội thông qua.

Lương của Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án cũng được điều chỉnh theo biến động tiền lương của thị trường tương tự như của các công chức khác. Tuy nhiên, việc điều chỉnh lương của Thẩm phán phải do Quốc hội quyết định trên cơ sở đề nghị của Chính phủ và được xem xét khi Quốc hội quyết định ngân sách hoạt động của Tòa án hằng năm.

Về thang, bảng lương của Thẩm phán ở Nhật Bản được quy định cụ thể như sau:

- Lương của Chánh án TATC: Lương chính của Chánh án TATC hiện nay được quy định ở mức 2.010.000 yên/tháng (khoảng 430 triệu đồng/tháng) tương đương với mức lương của Thủ tướng, Chủ tịch Hạ viện, Chủ tịch thượng viện. Quy định này nhằm bảo đảm rằng, các nhánh quyền lực nhà nước là ngang nhau.

- Lương của Thẩm phán TATC: Hiện tại, lương của Thẩm phán TATC là 1.466.000 yên/tháng (khoảng 313 triệu đồng/tháng), tương đương với mức lương của Bộ trưởng.

- Lương của Chánh án Tòa án cấp cao: Lương của Chánh án Tòa án cấp cao Tokyo là 1.406.000 yên/tháng (khoảng 300 triệu đồng/tháng); các Chánh án Tòa án cấp cao khác là 1.302.000 yên/tháng (khoảng 278 triệu đồng/tháng).

- Lương của các Thẩm phán khác: Theo thang bảng lương hiện nay, Thẩm phán Tòa án thông thường có 8 bậc lương (từ 1-8); Thẩm phán phụ thẩm có 12 bậc lương (từ 1-12) và Thẩm phán Tòa án đơn giản có 17 bậc lương (từ 1-17). Cơ cấu mức lương của các ngạch Thẩm phán được sắp xếp theo hướng Thẩm phán Tòa án thông thường (Tòa án cấp cao và Tòa án tỉnh) có mức lương cao nhất, tiếp đến là Thẩm phán Tòa án giản lược và Thẩm phán phụ thẩm có mức lương thấp nhất.

Mức lương cao nhất của Thẩm phán phụ thẩm là 421,100 yên/tháng (khoảng 90 triệu đồng/tháng), thấp hơn mức lương thấp nhất của Thẩm phán thông thường và tương đương với mức lương bậc 6 của Thẩm phán Tòa án giản lược. Mức lương cao nhất của Thẩm phán Tòa án giản lược tương đương với mức lương bậc 4 của Thẩm phán Tòa án thông thường và là 818.000 yên/tháng (tương đương 175 triệu đồng/tháng). Mức lương cao nhất của Thẩm phán thông thường là 1.175.000 yên/tháng (tương đương 251 triệu đồng/tháng).

Về việc điều chỉnh lương của Thẩm phán

Việc nâng bậc lương thường xuyên đối với Thẩm phán được xác định trên cơ sở kết quả công tác và số năm kinh nghiệm. Hội nghị Thẩm phán của Tòa án nơi Thẩm phán đó công tác có thẩm quyền xem xét, quyết định việc nâng bậc lương đối với Thẩm phán trên cơ sở đề xuất của Chánh án Tòa án nơi Thẩm phán đó làm việc và dựa trên các căn cứ cụ thể. Các yếu tố như học hàm, học vị của Thẩm phán không được coi là yếu tố được cân nhắc khi tính lương hay nâng bậc lương. Thông thường, TATC tiến hành công tác rà soát, điều chỉnh lương của Thẩm phán mỗi năm một lần vào khoảng tháng 9 và sẽ bắt đầu thi hành vào tháng 10 hoặc tháng 11.

Về trợ cấp, phụ cấp của Thẩm phán

Ngoài mức lương chính, Thẩm phán còn được hưởng các loại trợ cấp, phụ cấp, nhằm bảo đảm điều kiện làm việc gắn với những hoàn cảnh thực tế (ví dụ: trợ cấp luân chuyển tới nơi làm việc khác, trợ cấp nhà ở, trợ cấp đi lại, trợ cấp công việc đặc biệt, trợ cấp đối với địa bàn lạnh, trợ cấp cuối nhiệm kỳ…). Các loại trợ cấp, phụ cấp được chia theo cấp bậc, thâm niên, có loại được áp dụng chung cho tất cả các Thẩm phán, có loại được áp dụng riêng. Tuy nhiên, các loại trợ cấp chủ yếu tập trung cho đối tượng Thẩm phán được bổ nhiệm dưới 10 năm, do mức lương của nhóm này thấp, còn đối với người đã được bổ nhiệm trên 11 năm, thì mức lương chính đã tương đối cao, đủ để bảo đảm đời sống, không cần thêm các loại trợ cấp. Tỷ lệ lương/phụ cấp của Thẩm phán có 10 năm kinh nghiệm ở Nhật Bản tương ứng là 80/20.

Đối với công chức Tòa án không phải là Thẩm phán, thì được xếp ngạch và bậc lương tương đương với công chức nhà nước thông thường. Công chức loại này được hưởng phụ cấp tùy theo vùng làm việc, điều kiện gia đình…

1.2. Quy định của Nga

Theo quy định trong pháp luật Liên bang Nga, tất cả các Thẩm phán đều có địa vị như nhau. Các đặc điểm về địa vị pháp lý của một số loại Thẩm phán, bao gồm Thẩm phán của các Tòa án quân sự được xác định bởi luật liên bang và luật của các nước cộng hòa trong Liên bang Nga. Thẩm phán được ưu tiên về chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ khác. Luật Liên bang Nga ngày 26/6/1992, số 3132 -1 về Quy chế Thẩm phán tại Liên bang Nga quy định một số nội dung về bảo đảm vật chất cho Thẩm phán.

Mức lương cơ bản của Chánh án Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga được quy định bởi một sắc lệnh của Tổng thống Liên bang Nga. Mức lương cơ bản của Chánh án TATC Liên bang Nga được quy định bằng 98% mức lương cơ bản của Chánh án Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga. Mức lương cơ bản của Thẩm phán được xác lập trên cơ sở tỷ lệ phần trăm mức lương cơ bản của Chánh án TATC Liên bang Nga. Mức lương cơ bản của các Thẩm phán tăng (được điều chỉnh) hằng năm, phù hợp với luật liên bang về ngân sách liên bang cho năm tài chính tiếp theo và thời kỳ kế hoạch, liên quan đến mức độ lạm phát (giá tiêu dùng). Quyết định tăng (điều chỉnh) mức lương cơ bản của các Thẩm phán được thực hiện bởi Tổng thống Liên bang Nga.

Pháp luật Nga quy định Thẩm phán nam khi đạt độ tuổi 60, nữ là 55 có thâm niên công tác trong lĩnh vực pháp luật trên 25 năm, trong đó có ít nhất 10 năm là Thẩm phán, thì có quyền nghỉ hưu và nhận nguyên lương đến cuối đời. Thâm niên công tác dùng để tính lương hưu hằng tháng trọn đời, được tính cả thời gian giữ chức danh Thẩm phán và các chức vụ đã giữ.

Về tiền thù lao hằng tháng của Thẩm phán bao gồm:

Lương tháng - tương ứng với chức danh đang đảm nhận (phụ cấp chức danh) phụ cấp về bậc Thẩm phán, tiền thưởng hằng tháng, phụ cấp thâm niên, phụ cấp cho học vị, học hàm (tiến sĩ, phó tiến sĩ, giáo sư, phó giáo sư) danh hiệu “Luật gia công huân Liên bang Nga” và phụ cấp cho kiến thức ngoại ngữ được sử dụng trong việc thực hiện công vụ.

- Việc xác định mức lương theo bậc Thẩm phán theo tỷ lệ % so với phụ cấp chức danh Thẩm phán (sau đây viết tắt là PCCD) như sau:

+ Bậc 9: 30%;

+ Bậc 8: 40%;

+ Bậc 7: 50%;

+ Bậc 6: 60%;

+ Bậc 5: 75%;

+ Bậc 4: 90%;

+ Bậc 3: 105%;

+ Bậc 2: 120%;

+ Bậc 1: 135%;

+ Cao cấp: 150%.

- Xác định phụ cấp thâm niên của Thẩm phán theo tỷ lệ % so với PCCD như sau:

+ Từ 2 năm đến 5 năm: 15%;

+ Từ 5 năm đến 10 năm: 25%;

+ Từ 10 năm đến 15 năm: 30%;

+ Từ 15 năm đến 20 năm: 40%;

+ Trên 20 năm: 50%.

- Xác định các mức phụ cấp tăng thêm hằng tháng cho Thẩm phán như sau:

+ Có học vị phó tiến sĩ hoặc học hàm phó giáo sư: 5% PCCD;

+ Có học vị tiến sĩ hoặc học hàm giáo sư: 10% PCCD;

Điều cần lưu ý  là, Nga chỉ có học vị phó tiến sĩ và tiến sĩ, tương tự như ở Việt Nam là tiến sĩ và tiến sĩ khoa học.

+ Có danh hiệu “Luật gia công huân Liên bang Nga”: 10% PCCD.

+ Xác định phụ cấp cho Thẩm phán Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga vì đã sử dụng kiến thức ngoại ngữ trong khi thực hiện công vụ: 20% PCCD.

Về tiền thưởng và hỗ trợ vật chất cho Thẩm phán:

Các Thẩm phán có thể nhận được tiền thưởng và hỗ trợ vật chất trong giới hạn của quỹ lương xác định. Trình tự trả tiền thưởng và hỗ trợ vật chất cho các Thẩm phán được xác định bởi các văn bản của Tòa án Hiến pháp Liên bang Nga và TATC Liên bang Nga dành cho các Thẩm phán thuộc hai cơ quan này, các văn bản của Cục Tư pháp TATC Liên bang Nga sau khi có sự đồng ý của Hội đồng Thẩm phán Liên bang Nga dành cho Thẩm phán thuộc các Tòa án có thẩm quyền xét xử chung và các Tòa án trọng tài. Ngoài ra, Thẩm phán Nga còn được nhận tiền thưởng hằng quý, tiền hỗ trợ nghỉ phép năm với thời gian 30 ngày làm việc. Thẩm phán công tác tại vùng Cực Bắc được nghỉ 51 ngày làm việc/năm, ở các khu vực phụ cận vùng Cực Bắc và điều kiện khắc nghiệt về khí hậu là 45 ngày làm việc/năm. Thẩm phán còn được tính thêm ngày nghỉ phép trên cơ sở số năm làm việc trong lĩnh vực pháp luật.

Các Thẩm phán Nga cũng được hỗ trợ về nhà ở, bảo hiểm y tế, đồng phục v.v.. nhằm bảo đảm họ có thể yên tâm làm việc, bảo đảm sự vô tư, khách quan khi thực thi công vụ.

1.3. Quy định của Đức

Theo Quy chế về lương công chức liên bang - Thẩm phán ngày 06/8/2002, thì lương của Thẩm phán được chia làm 10 bậc, theo thứ tự từ thấp đến cao, cụ thể:

- Nhóm 1: Nhóm này bao gồm: Thẩm phán tại Tòa án địa phương, Thẩm phán tại Tòa án lao động, Tòa án kỷ luật liên bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án hành chính; Chánh án của Tòa án địa phương, Chánh án Tòa án lao động, Chánh án Tòa án xã hội.

- Nhóm 2: Nhóm này bao gồm Thẩm phán tại Tòa án địa phương có thêm nhiệm vụ giám sát; Thẩm phán tại Tòa án lao động, Tòa án sáng chế liên bang, Tòa án tài chính, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang; Thẩm phán chủ tọa tại Tòa án Vorsitzender Richter am Landgericht, Tòa án kỷ luật quân vụ, Tòa án hành chính; Chánh án Tòa án lao động, Tòa án xã hội; Phó Chánh án của các Tòa án địa phương; Tòa án lao động, Tòa án kỷ luật liên bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án xã hội, Tòa án kỷ luật quân vụ, Tòa án hành chính.

- Nhóm 3: Thẩm phán chủ tọa Tòa án sáng chế liên bang, Tòa án tài chính, Tòa án lao động, Tòa án xã hội, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang; Chánh án Tòa án địa phương; Tòa án lao động; Tòa án kỷ luật liên bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án xã hội, Tòa án kỷ luật quân vụ, Tòa án hành chính; Phó Chánh án Tòa án địa phương; Tòa án tài chính, Tòa án lao động bang, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang, Tòa án hành chính.

 - Nhóm 4: Chánh án Tòa án địa phương, Tòa án lao động, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án xã hội; Chánh án Tòa án hành chính; Phó Chánh án Tòa án sáng chế liên bang, Tòa án lao động bang, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang.

- Nhóm 5: Chánh án Tòa án địa phương; Tòa án tài chính, Tòa án lao động bang, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang, Tòa án hành chính.

-  Nhóm 6: Thẩm phán tại Tòa án lao động liên bang, Tòa án tài chính liên bang, Tòa án tư pháp liên bang, Tòa án xã hội liên bang, Tòa án hành chính liên bang; Chánh án của Tòa án địa phương, Tòa án tài chính, Tòa án lao động bang, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp vùng, Tòa án tư pháp bang, Tòa hành chính bang.

- Nhóm 7: Không áp dụng đối với Thẩm phán.

- Nhóm 8: Thẩm phán chủ tọa tại Tòa án lao động liên bang, Tòa án tài chính liên bang, Tòa án tư pháp liên bang, Tòa án xã hội liên bang, Tòa án hành chính liên bang; Chánh án của Tòa án sáng chế liên bang, Tòa án lao động bang, Tòa án xã hội bang, Tòa án tư pháp bang, Tòa án hành chính bang; Phó Chánh án Tòa án lao động liên bang, Tòa án tài chính liên bang, Tòa án tư pháp liên bang, Tòa án xã hội liên bang, Tòa án hành chính liên bang.

- Nhóm 9: Không áp dụng đối với Thẩm phán.

- Nhóm 10: Chánh án của Tòa án lao động liên bang, Tòa án tài chính liên bang, Tòa án tư pháp liên bang, Tòa án xã hội liên bang, Tòa án hành chính liên bang.

Về cơ bản, phần lớn Thẩm phán của Đức được hưởng mức lương theo nhóm 1 và 2. So với mức lương của một số ngành, nghề khác trong xã hội, thì lương của Thẩm phán Đức ở nhóm 1 và nhóm 2 không cao. Điều này chưa tương xứng với vai trò và vị trí của Thẩm phán trong xã hội. Vì vậy, ở Đức, hiện có nhiều ý kiến đề nghị tăng lương cho Thẩm phán thuộc các nhóm này. Tiền lương của Thẩm phán được nhận chưa tương xứng với quá trình học tập và tính chất công việc phải làm hằng ngày. Cho đến khi có thể bắt đầu đi làm, Thẩm phán phải mất 08 năm để học một chuyên ngành rất khó. Trong công việc hằng ngày, Thẩm phán thường xuyên phải đối mặt với nhiều vụ án rất khó giải quyết. Việc không có mức lương phù hợp, khiến các bang gặp khó khăn trong việc tìm kiếm những Thẩm phán trẻ, giỏi, làm lớp kế cận.

Về các loại phụ cấp và trợ cấp:

Luật về lương của Liên bang Đức ngày 23/5/1975 quy định Thẩm phán được hưởng một số loại phụ cấp và trợ cấp như trợ cấp tiền nuôi con, phụ cấp chức vụ và phụ cấp vị trí.

Đối với chức vụ cao cấp, thì Thẩm phán được chi trả phụ cấp chức vụ và phụ cấp vị trí. Phụ cấp chức vụ là phụ cấp không thể hủy ngang, có thể được chi trả vào lương hưu trí và có giá trị như một thành phần của lương cơ bản. Phụ cấp vị trí chỉ được chi trả cho thời gian đảm nhận chức vụ cao cấp. Phụ cấp vị trí là phụ cấp không thể hủy và chỉ được chi trả vào lương hưu trí nếu điều đó được quy định trong luật.

Ngoài ra, Điều 42a của Luật về lương của liên bang quy định về tiền thưởng và các công việc đặc biệt, trong đó có đối tượng được hưởng là Thẩm phán không giữ chức vụ. Tiền thưởng năng suất và phụ cấp năng suất được trả cho những kết quả công việc đặc biệt xuất sắc. Tiền thưởng năng suất không được vượt quá tiền lương cơ bản ban đầu trong nhóm tiền lương của người hưởng lương, phụ cấp năng suất hằng tháng không được vượt quá 7% tiền lương cơ bản ban đầu.

Trả lương trong trường hợp chuyển vị trí làm việc

Điều 19a Luật về lương của liên bang quy định, trong trường hợp Thẩm phán được trao một vị trí công vụ khác theo yêu cầu của Nhà nước, mà lương bị giảm, thì phải bảo đảm trả lương cơ bản khác để người nhận lương vẫn được hưởng lương theo mức lương mà người đó được nhận cho vị trí công vụ trước đó.

Nếu việc thuyên chuyển công tác theo đề nghị của Thẩm phán mà tổng số lương bao gồm lương cơ bản, các khoản phụ cấp bổ sung lương và các khoản chi trả đặc biệt khác dựa theo lương và phụ cấp bị giảm đi, thì Thẩm phán được nhận một khoản phụ cấp cân đối. Khoản tiền trợ cấp cân đối này được tính theo sự khác biệt giữa số tiền đáng được nhận theo quy định cho tới nay và số tiền được nhận mới tính từ thời điểm thuyên chuyển.

1.4. Quy định của Pháp

Thẩm phán được tuyển dụng qua thi tuyển, được bổ nhiệm suốt đời và nghỉ hưu ở tuổi 65, trừ các Thẩm phán của Tòa phá án có thể nghỉ hưu ở tuổi 68. Thẩm phán chịu sự điều chỉnh của các quy định tương đối đặc biệt, khá gần quy định về công chức, nhưng cũng có những đặc trưng riêng.

Ngay sau khi được tuyển dụng, Thẩm phán sẽ được đào tạo tại Trường Thẩm phán quốc gia và các học viên sẽ được Nhà nước trả lương toàn bộ từ khi được tuyển dụng, mặc dù vẫn còn là học viên của Trường Thẩm phán quốc gia. Khi đã được tuyển dụng vào Trường Thẩm phán quốc gia, các học viên được coi như là công chức Nhà nước và có mức lương khởi điểm khoảng 1.357EUR/tháng và khi được bổ nhiệm làm Thẩm phán thì được nhận mức lương khởi điểm bậc 1 là 2.662EUR/tháng. Những người có kinh nghiệm công tác càng nhiều, thì có lương càng cao. Ngoài lương, Thẩm phán còn được hưởng các khoản trợ cấp như: tiền đi lại, nhà cửa, khu vực công tác, chức vụ.... Việc tăng lương được quyết định trên cơ sở thâm niên và đánh giá kết quả công tác. Các Thẩm phán sẽ được xếp ở 2 bậc lương là bậc 2 và bậc 1. Bậc ngoại hạng chỉ áp dụng đối với những Thẩm phán có chức danh lãnh đạo là Chánh án hoặc Viện trưởng Viện Công tố.

2. Nhận xét và đánh giá chung

Có thể nhận thấy, Thẩm phán là một nghề cao quý và luôn được nhiều nước dành cho sự quan tâm và ưu đãi đặc biệt. Tiền lương cho Thẩm phán được tính theo thang bậc lương có tính đến thâm niên công tác và các khoản phụ cấp, hỗ trợ về mặt vật chất và các chế độ an sinh xã hội khác. Mục tiêu là bảo đảm cho các Thẩm phán yên tâm công tác, bảo đảm không bị can thiệp từ bên ngoài (do mức đãi ngộ thấp).

Một số quốc gia coi Thẩm phán là một nghề đặc biệt, không phải là công chức như các công chức bình thường trong bộ máy nhà nước. Mức lương của các Thẩm phán được quy định cao hơn mức lương của công chức thông thường, tương đương với các chức danh chủ chốt trong cơ quan lập pháp, hành pháp, nhằm bảo đảm tính độc lập của Thẩm phán trong việc thực thi quyền tư pháp.

Các nước đều ban hành luật riêng quy định về tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng và các quy định về an sinh xã hội đối với Thẩm phán. Luật về tiền lương của Thẩm phán Nhật Bản được ban hành lần đầu năm 1948 với 15 điều khoản cơ bản quy định chế độ, chính sách tiền lương đối với Thẩm phán. Luật này thường xuyên được Quốc hội sửa đổi (chỉ sửa đổi đối với thang bảng lương) trong các năm tiếp theo, để đảm bảo thang bảng lương phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế của Nhật Bản. Luật về lương của Liên bang Đức ban hành ngày 23/5/1975 quy định về tiền lương cho công chức, Thẩm phán và quân nhân, trong đó điều chỉnh việc trả lương và các nội dung liên quan cho các nhóm đối tượng nêu trên. Ngoài Luật này, Đức đã ban hành Quy chế lương của Thẩm phán ngày 06/8/2002. Theo đó, lương của Thẩm phán Đức được chia thành 9 nhóm, từ 1 đến 9, theo thứ tự từ thấp đến cao. Luật Liên bang Nga ngày 26/6/1992, số 3132-1 về Quy chế Thẩm phán quy định rõ về việc bảo đảm vật chất cho Thẩm phán. Luật quy định cụ thể tiền thù lao hằng tháng của Thẩm phán bao gồm tiền lương, tiền thưởng, các loại phụ cấp v.v… Đây là kinh nghiệm tốt để nước ta tham khảo, tiến tới hoàn thiện pháp luật về lương của Thẩm phán và các chức danh tư pháp trong hệ thống TAND.

Lương của Thẩm phán cũng được chia thành các bậc, ngạch riêng, phù hợp với tính chất phức tạp của công việc và nhiệm vụ tố tụng mà họ phải tiến hành. Về nguyên tắc, lương của Thẩm phán chỉ có thể tăng, chứ không bị giảm vì bất kỳ lý do gì trong suốt thời gian họ làm Thẩm phán. Bảng lương của Thẩm phán cũng được điều chỉnh khi mức lương của khối doanh nghiệp thay đổi như áp dụng đối với các công chức Nhà nước khác. Điều này giúp chế độ lương của Thẩm phán vừa mang tính thực tế, vừa khẳng định được vị thế của họ trong xã hội.

Một số nước áp dụng mức phụ cấp tăng thêm cho Thẩm phán có học hàm, học vị. Nga áp dụng mức phụ cấp tăng thêm hằng tháng cho Thẩm phán có học vị phó tiến sĩ hoặc học hàm phó giáo sư là 5% của phụ cấp chức danh; học vị tiến sĩ, học hàm giáo sư, danh hiệu “Luật gia công huân Liên bang Nga” là 10% phụ cấp chức danh. Quy định như vậy vừa bảo đảm chế độ, chính sách cho những Thẩm phán có học vị, học hàm cao, có nhiều cống hiến, vừa khuyến khích các Thẩm phán không ngừng học tập, phấn đấu và có nhiều đóng góp cho xã hội. Các loại phụ cấp như vậy ở nước ta hiện chưa có. Đây cũng là kinh nghiệm tốt để Việt Nam tham khảo, kiến nghị về khả năng bổ sung những loại phụ cấp này cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp.

Nhà nước hết sức quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho Thẩm phán và gia đình của Thẩm phán. Thẩm phán và gia đình được phục vụ dịch vụ y tế, kể cả việc sử dụng các thiết bị y tế và thuốc chữa bệnh đắt tiền, đến các trại điều dưỡng, chi phí được ngân sách nhà nước chi trả.

3. Một số khuyến nghị về cải cách chế độ tiền lương đối với Thẩm phán, các chức danh tư pháp và người lao động khác trong hệ thống Tòa án nhân dân theo dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi)

3.1. Có thể thấy, trong hầu hết các quốc gia trên thế giới, Thẩm phán nói riêng và hệ thống các chức danh tư pháp của TAND nói chung có vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong bộ máy nhà nước. Do đó, chế độ tiền lương và các chế độ khác đối với các chức danh này cũng được bảo đảm cho tương xứng, phù hợp với trọng trách, vai trò mà họ được giao. Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về chính sách tiền lương đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp thuộc hệ thống TAND, chúng tôi có một số khuyến nghị đối với việc cải cách chế độ tiền lương, thưởng, phụ cấp và an sinh xã hội đối với Thẩm phán, các chức danh tư pháp và người lao động trong hệ thống TAND như sau:

Thứ nhất, cần ghi nhận cụ thể tính đặc thù của chính sách tiền lương đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án. Hiện nay, lương của Thẩm phán và cán bộ Tòa án ở nước ta cơ bản đang được tính như lương của các công chức nhà nước khác. Điều này không phản ánh được vị trí, vai trò của Thẩm phán là người đại diện cho quyền lực nhà nước thực thi quyền tư pháp đã được ghi nhận trong Điều 102 Hiến pháp năm 2013, cũng như Luật TCTAND năm 2014. Thực tế này gây ảnh hưởng đến hiệu quả công tác, cũng như tính độc lập, liêm chính của Thẩm phán và cán bộ Tòa án.

Thứ hai, cần cân nhắc tham khảo mức lương, thang bảng lương của một số nước như của Nhật Bản hoặc của Nga, để áp dụng vào Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm tính độc lập và vị thế của Thẩm phán trong xét xử, tăng cường tính kỷ luật và tự chịu trách nhiệm của Thẩm phán, cán bộ Tòa án trong thực thi công vụ.

Thứ ba, ngoài lương cần xây dựng chế độ phụ cấp đối với các Thẩm phán, chức danh tư pháp khác bảo đảm tính đặc thù công việc của hệ thống TAND.

3.2. Hiện nay, theo dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi), lương và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán được quy định tại các điều 101, 142 dự thảo Luật, cụ thể:

- Điều 101 về chế độ, chính sách đối với Thẩm phán (sửa đổi, bổ sung Điều 75 Luật TCTAND năm 2014):

“Thẩm phán được hưởng chế độ, chính sách sau:

1. Được hưởng tiền lương, phụ cấp theo quy định tại Điều 142 của Luật này;

2. Được xem xét hưởng chế độ, chính sách như thương binh hoặc được xem xét để công nhận là liệt sĩ và chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật khi bị tổn hại tính mạng, sức khỏe vì lý do công vụ;

3. Được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ, nghiệp vụ;

4. Được cấp trang phục, Giấy chứng minh Thẩm phán để làm nhiệm vụ;

5. Được tôn vinh và khen thưởng theo quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng;

6. Được hưởng các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật”.

- Điều 142 về chế độ tiền lương, phụ cấp (sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 7 Điều 75; khoản 1 Điều 94 LTCTAND 2014):

1. Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án.

2. Chế độ tiền lương và phụ cấp đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án do Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

3. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán Tòa án nhân dân, Thẩm tra viên Tòa án, Thư ký Tòa án của Tòa án quân sự thực hiện theo chế độ tiền lương, phụ cấp đối với lực lượng vũ trang.

4. Chế độ tiền lương, phụ cấp đối với công chức khác, viên chức và người lao động của Tòa án được thực hiện theo quy định của pháp luật.

5. Công chức, viên chức của Tòa án được điều động, biệt phái, luân chuyển tại các Tòa án được hưởng chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật”.

Theo quan điểm của tác giả, quy định của dự thảo Luật về lương và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán về cơ bản đã phù hợp với cách tiếp cận của quốc tế về vấn đề này. Theo đó, (i) Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp đối với Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án; (ii) ngoài lương, Thẩm phán còn được hưởng chế độ, chính sách ưu đãi khi bị tổn hại sức khỏe, tính mạng vì lý do công vụ, hưởng các chế độ, chính sách khác theo quy định của pháp luật; (iii) Thẩm phán và công chức, viên chức của Tòa án được hưởng chế độ phụ cấp theo quy định của pháp luật.

Trên cơ sở các nhận định và phân tích nêu trên, chúng tôi kiến nghị một số nội dung sau:

Một là, Quốc hội sớm xem xét, thông qua dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi), trong đó có quy định về lương và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác của Tòa án, góp phần nhằm đẩy mạnh cải cách tư pháp, hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của hệ thống TAND; xây dựng hệ thống Tòa án chuyên nghiệp, hiện đại, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân.

Về lâu dài, cần nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, Nga, Đức để xây dựng luật riêng về tiền lương của Thẩm phán và các chức danh tư pháp. Luật cần quy định một cách toàn diện về chế độ tiền lương, phụ cấp lương, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và các chế độ, chính sách khác cho Thẩm phán và các chức danh tư pháp. Luật cần thể hiện tính đặc thù cao về tiền lương của các chức danh nêu trên so với công chức hành chính thông thường.

Hai là, theo Nghị quyết số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023 của Quốc hội khóa XV về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, từ ngày 01/7/2024, thực hiện cải cách tổng thể chính sách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII (Nguồn kinh phí thực hiện cải cách tiền lương bảo đảm từ nguồn cải cách tiền lương tích lũy của ngân sách trung ương, ngân sách địa phương và một phần bố trí trong dự toán chi cân đối ngân sách nhà nước)[2]. Để thực hiện việc cải cách tiền lương theo tiến độ nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/01/2024 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Theo đó, Ban Công tác đại biểu thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, Tòa án, Viện kiểm sát và Kiểm toán nhà nước (sau khi có Kết luận của Bộ Chính trị)[3].

Vì vậy, trong khi dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) đang chờ Quốc hội thông qua, khi xây dựng chế độ tiền lương mới đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc hệ thống TAND việc quan tâm nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về tiền lương và chế độ đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác, bảo đảm có chính sách ưu tiên, chế độ, chính sách ưu đãi với công việc đặc thù, “có yếu tố điều kiện lao động cao hơn bình thường”[4] của hệ thống TAND là đòi hỏi rất cần thiết, quan trọng và có ý nghĩa.

Kết luận

Nhìn chung, theo kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, công việc của Tòa án có tính chất đặc thù, có điều kiện lao động cao hơn bình thường, nhất là chức danh Thẩm phán. Do đó, lương và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác cũng ở mức cao hơn so với các ngành nghề khác. Hiện nay, quy định của dự thảo Luật TCTAND (sửa đổi) về lương và chế độ, chính sách đối với Thẩm phán về cơ bản đã phù hợp với cách tiếp cận của quốc tế về vấn đề này. Chính vì vậy, việc thông qua dự thảo Luật cùng với việc cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 là yêu cầu cấp thiết để nâng cao chế độ, chính sách đối với Thẩm phán và các chức danh tư pháp khác, nhằm góp phần quan trọng và hiệu quả họ yên tâm hoàn thành trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân./.

 

TS. NGUYỄN THÚY HIỀN (Nguyên Phó Chánh án TANDTC)

[1] Hà Chi, Những hạn chế, vướng mắc của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/nhung-han-che-vuong-mac-cua-luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan-nam-2014-va-kien-nghi-hoan-thien8033.html, truy cập ngày 01/3/2024.

[2] Khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023 của Quốc hội khóa XV về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

[3] Phụ lục Danh mục các nhiệm vụ ban hành kèm theo Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ.

[4] Tiểu mục 3.1 phần II Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

Tài liệu tham khảo

1. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.

2. Hiến pháp năm 2013.

3. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

4. Dự thảo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), trình kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV.

5. Nghị quyết số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023 của Quốc hội khóa XV về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024.

6. Quyết định số 135/QĐ-TTg ngày 31/01/2024 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp.

7. Báo cáo kết quả công tác của Đoàn đại biểu Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam thăm và làm việc tại Nga (từ ngày 27/11 đến ngày 07/12/2018); Báo cáo Chương trình bồi dưỡng ngắn hạn của Đoàn Tòa án nhân dân tối cao tại Pháp (từ ngày 05-14/7/2018);

8. Báo cáo kết quả công tác của Đoàn đại biểu Tòa án nhân dân tối cao thăm và làm việc tại Nhật Bản từ ngày 27/02/2018 đến ngày 04/3/2018.

9. Hà Chi, Những hạn chế, vướng mắc của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và kiến nghị hoàn thiện, https://tapchitoaan.vn/nhung-han-che-vuong-mac-cua-luat-to-chuc-toa-an-nhan-dan-nam-2014-va-kien-nghi-hoan-thien8033.html, truy cập ngày 01/3/2024.

 

 TAND TP Hà Nội xét xử vụ “chuyến bay giải cứu” - Ảnh: CTV