Một số vướng mắc và kiến nghị về chế định Quản tài viên
Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả đề cập đến một số vấn đề còn vướng mắc liên quan đến hoạt động của Quản tài viên và các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định liên quan đến chế định Quản tài viên.
1.Tổng quan về quản tài viên tại Việt Nam
Tại Việt Nam, chế định về Quản tài viên xuất hiện từ khi Luật Phá sản 2014 ra đời. Theo đó, Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản[1].
Quản tài viên (QTV) là một cá nhân được pháp luật ủy quyền tham gia vào thủ tục phá sản nhằm tạm thời quản lý và thanh lý tài sản của các chủ thể mất khả năng thanh toán. QTV có thể hành nghề với tư cách cá nhân hoặc tham gia doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. QTV có nhiệm vụ xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ; lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; đại diện cho doanh nghiệp, hợp tác xã trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không có người đại diện theo pháp luật... QTV bắt đầu tham gia vụ việc khi được chỉ định và kết thúc khi thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản. QTV tham gia vụ việc phá sản được nhận thù lao theo quy định.
Số lượng QTV đã có sự gia tăng đáng kể trong những năm gần đây. Nếu như đến tháng 4/2020, cả nước mới có 270 QTV hành nghề với tư cách cá nhân; hơn 40 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đang hoạt động[2] thì đến tháng 10/2023 chỉ tính riêng tại TP. Hồ Chí Minh, số lượng QTV hành nghề với tư cách cá nhân là 123 và 43 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản[3]. Con số này tại Hà Nội tính đến tháng 6/2023 theo công bố của Sở Tư pháp là 76 QTV hành nghề với tư cách cá nhân[4] và 9 doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản tính đến tháng 7/2021[5]. Theo tìm hiểu của chúng tôi, tính đến tháng 4/2024, số lượng QTV ở Việt Nam là hơn 2.000 người. Sự gia tăng số lượng QTV và doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đã phản ánh nhu cầu nhân lực, sự quan tâm, chú trọng của xã hội đối với nghề QTV. Tuy nhiên trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật liên quan đến QTV đã bộc lộ những khó khăn, vướng mắc cần có giải pháp hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động và địa vị pháp lý của QTV.
2. Một số vướng mắc và kiến nghị
2.1. Phạm vi điều chỉnh, các văn bản hướng dẫn về hoạt động của QTV
Hiện nay các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp về QTV là Luật Phá sản 2014; Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản; Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 26/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản; Thông tư số 224/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề, hoạt động quản lý, thanh lý tài sản; lệ phí cấp chứng chỉ hành nghề quản tài viên.
Các văn bản này điều chỉnh chủ yếu về điều kiện, trình tự, thủ tục cấp chứng chỉ hành nghề QTV, quyền và nghĩa vụ của QTV, xử lý vi phạm QTV trong quá trình hành nghề mà chưa có quy định, hướng dẫn về cách thức thực hiện, cơ chế phối hợp với QTV của các chủ thể có liên quan khác trong quá trình hành nghề của QTV, chế độ báo cáo của QTV trong quá trình thực hiện quản lý, thanh lý tài sản. Chẳng hạn như trong quá trình hành nghề, QTV cần phải phối hợp với nhiều tổ chức, cá nhân khác có liên quan như Tòa án, chủ nợ, người mắc nợ, cơ quan thi hành án… Và để hoạt động hiệu quả, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, kịp thời về thủ tục, về thời hạn, tiến độ… nhưng hiện nay chưa có văn bản pháp luật quy định vấn đề này. Điều này dẫn đến khó khăn, trở ngại cho hoạt động hành nghề của QTV trong thực tiễn.
Ngoài ra, để giám sát được hoạt động của QTV có tuân thủ đúng quy định của pháp luật, cần có cơ chế báo cáo định kỳ của QTV đối với cơ quan quản lý hoạt động của QTV nhằm phát hiện kịp thời các sai phạm và có chế tài phù hợp đối với hành vi sai phạm nhằm bảo đảm lợi ích của những chủ thể liên quan đến hoạt động hành nghề của QTV. Đồng thời, văn bản quy định về sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan chức năng liên quan khác trong hoạt động hành nghề của QTV cần quy định rõ đầu mối thực hiện, thời hạn thực hiện, hình thức thực hiện… nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho QTV có thể thực hiện chức năng, nhiệm vụ luật định của mình.
2.2. Chưa có chương trình đào tạo riêng dành cho các đối tượng có thể trở thành QTV
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Phá sản 2014 thì luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng và có kinh nghiệm 05 năm trở lên về lĩnh vực được đào tạo có thể trở thành QTV và hành nghề QTV. Quy định này cho thấy Luật Phá sản 2014 đã mở rộng nhóm đối tượng có thể trở thành QTV so với thành phần Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong Luật Phá sản 2004[6]. Nếu như trước đây việc quản lý, thanh lý tài sản được giao cho tập thể là Tổ quản lý, thanh lý tài sản gồm: một chấp hành viên của cơ quan thi hành án cùng cấp làm Tổ trưởng; một cán bộ của Tòa án; một đại diện chủ nợ và đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản thì nay đã được cá nhân hóa bởi một QTV (QTV hành nghề với tư cách cá nhân hoặc tham gia doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản). Điều này đem lại sự tinh gọn trong thành phần tham gia giải quyết thủ tục phá sản doanh nghiệp, đồng thời phát huy được kiến thức, kinh nghiệm của nhóm đối tượng có kiến thức chuyên môn về pháp luật, kinh tế, doanh nghiệp, thuế, ngân hàng - là những mảng ngành trọng yếu đến hoạt động của doanh nghiệp và liên quan mật thiết đến hoạt động phục hồi của doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, quy định như hiện nay cho thấy chúng ta vẫn đang tận dụng nguồn lực chất xám của nhóm đối tượng này để hành nghề QTV chứ hoàn toàn chưa có một chương trình đào tạo riêng biệt về QTV dành riêng cho nhóm đối tượng có thể trở thành QTV giống như chương trình đào tạo Luật sư, Kiểm toán viên, Công chứng viên… Điều này về lâu dài sẽ làm ảnh hưởng đến chất lượng QTV bởi để phát huy tối đa vai trò của QTV thì ngoài việc thực hiện các công tác hành chính về quản lý, thanh lý tài sản thì QTV còn phải đưa ra các đánh giá, nhận định, tham vấn về “sức khỏe” của doanh nghiệp đang bị đề nghị phá sản. QTV lúc này như một bác sĩ và nếu như việc bắt bệnh và kê đơn không đúng thì người bệnh có thể lâm vào tình trạng nghiêm trọng hơn.
Thực tế cho thấy không phải cứ được đào tạo chuyên môn, có kinh nghiệm về pháp luật, tài chính, kế toán thì có thể vận dụng ngay được vào quá trình quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản. Khi tham gia vào quá trình mở thủ tục phá sản đối với một doanh nghiệp, QTV vừa là người thực hiện các công tác hành chính như: lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; tổ chức việc định giá, thanh lý tài sản theo quy định; báo cáo cơ quan thi hành án dân sự, thông báo đến người tham gia thủ tục phá sản có liên quan về việc giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện thanh lý tài sản; báo cáo về tình trạng tài sản, công nợ và hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã, tham gia xây dựng kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán… QTV đồng thời có vai trò là người thực thi nhiệm vụ của Thẩm phán, vừa là đại diện cho chủ nợ và doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản, vừa phải chịu sự giám sát của chấp hành viên. Do đó cần thiết phải xây dựng chương trình đào tạo kỹ năng nghề nghiệp cho nhóm đối tượng có thể trở thành QTV, tránh việc tiếp tục “tận dụng” nguồn lực như hiện nay. Có như vậy mới đảm bảo được tính độc lập nghề nghiệp và nâng cao chuyên môn, kỹ năng hành nghề, địa vị pháp lý của QTV.
2.3. Quy định các nội dung công bố thông tin về QTV đăng ký hành nghề chưa đầy đủ
Như đã đề cập, QTV có thể là những người đang hoạt động nghề luật sư, kiểm toán viên, người có trình độ cử nhân luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng, do đó để Thẩm phán hoặc người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có cơ sở lựa chọn QTV thì cũng cần quan tâm đến chuyên môn của họ. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 14 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP thì mẫu công bố danh sách QTV của Bộ Tư pháp chưa có thông tin về lĩnh vực chuyên môn của QTV (hiện chỉ có các thông tin về tỉnh/thành; họ tên; năm sinh; số, ngày cấp chứng chỉ QTV; địa chỉ giao dịch). Việc công bố danh sách QTV chưa được cập nhật thường xuyên dẫn đến khó khăn trong việc tra cứu, tìm hiểu thông tin QTV. Vì QTV được hành nghề trên phạm vi toàn quốc nên việc công khai lĩnh vực chuyên môn của QTV là cần thiết để giúp Thẩm phán, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cân nhắc, lựa chọn QTV phù hợp với tính chất, mức độ của doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng phá sản. Việc lựa chọn này rất quan trọng, đóng vai trò quyết định xem vụ việc phá sản có được tiến hành tốt nhất với thời gian nhanh nhất có thể hay không[7].
2.4. Chưa ban hành bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp QTV
Nghị định số 22/2015/NĐ-CP quy định những hành vi bị nghiêm cấm đối với QTV, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản và các nguyên tắc hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trong đó có nguyên tắc tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp Quản tài viên[8]. Mặc dù vậy cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định chi tiết về quy tắc đạo đức nghề nghiệp của QTV. Về nguyên tắc chung, QTV phải đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn được hành nghề, tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Tuy nhiên, để xây dựng được đội ngũ QTV chuyên nghiệp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của QTV trong quá trình hành nghề, nâng cao địa vị pháp lý của QTV, theo chúng tôi, việc ban hành văn bản quy định quy tắc đạo đức nghề nghiệp QTV là cần thiết. Có như vậy, nghề nghiệp QTV mới được quan tâm, đầu tư, chú trọng và được xem là một lĩnh vực nghề nghiệp độc lập thay vì mang tính “kiêm nhiệm” như hiện nay.
2.5.Chưa có quy định cụ thể về số lượng QTV tham gia vụ việc
Theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Phá sản 2014 thì Thẩm phán có trách nhiệm chỉ định QTV, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề xuất lựa chọn QTV nhưng Luật Phá sản 2014 và các văn bản hướng dẫn không quy định rõ số lượng QTV được chỉ định và đề xuất là bao nhiêu người? Thực tế, theo tìm hiểu của chúng tôi tại các quyết định tuyên bố doanh nghiệp phá sản của Tòa án được công bố thì thường chỉ có một QTV tham gia vụ việc. Do vậy, cần có quy định, hướng dẫn về số lượng QTV tham gia vụ việc, và đối với vụ việc có tính chất phức tạp như theo hướng dẫn tại Điều 3 Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP thì nên có ít nhất 2 QTV trở lên tham gia vụ việc. Từ đó, cũng cần có quy định, hướng dẫn về cơ chế phối hợp, phân công công việc, trách nhiệm của các QTV khi tham gia vụ việc có tính chất phức tạp.
2.6. Quyền, nghĩa vụ của QTV rất rộng nhưng chưa có cơ chế để đảm bảo được thực thi hiệu quả
Điều 16 Luật Phá sản 2014 không tách bạch đâu là quyền, đâu là nghĩa vụ của QTV mà theo hướng quy định chung là quyền và nghĩa vụ. Do đó có thể hiểu, trong quá trình hành nghề, QTV vừa thực hiện quyền và cũng là phải thực hiện các quyền để bảo đảm nghĩa vụ của mình. Ngoài các quyền, nghĩa vụ cơ bản của QTV như lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ, danh sách người mắc nợ; giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã theo quy định của pháp luật; bán tài sản theo quyết định của Thẩm phán để bảo đảm chi phí phá sản; đề nghị Thẩm phán thu thập tài liệu, chứng cứ, tuyên bố giao dịch vô hiệu và quyết định thu hồi tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp… QTV còn có quyền, nghĩa vụ: bảo quản tài sản; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của Thẩm phán; ngăn chặn việc tẩu tán tài sản; tối đa hóa giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã khi bán, thanh lý tài sản; xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Câu hỏi đặt ra là cơ chế nào để đảm bảo QTV phát huy hiệu quả các quyền được pháp luật trao, phạm vi, quyền hạn của QTV đến đâu khi thực thi nhiệm vụ? Pháp luật đã có quy định về trách nhiệm của các chủ thể có liên quan trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng lại chưa quy định chế tài trong trường hợp các chủ thể này không hợp tác cung cấp, giao nộp. Do vậy, để bảo đảm hiệu quả trong việc trao quyền và thực thi quyền trên thực tế, chúng tôi cho rằng cần bổ sung các quy định về chế tài đối với các chủ thể có liên quan khi không thực hiện đúng yêu cầu của QTV gây ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc phá sản.
3.Kết luận
Nhìn chung pháp luật về phá sản hiện nay đã khắc phục được nhiều vướng mắc so với pháp luật trước đây và tương đồng hơn với pháp luật một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Singapore... Sự ra đời của chế định QTV cũng đã phát huy thế mạnh kiến thức, chuyên môn, kinh nghiệm trong lĩnh vực pháp luật, kinh tế, kế toán, tài chính, ngân hàng của một đội ngũ nhân lực có kinh nghiệm trong các mảng này. Tuy nhiên, để nâng cao chuyên môn, kỹ năng hành nghề, địa vị pháp lý của QTV nói riêng và tăng cường hiệu quả của quá trình giải quyết vụ việc phá sản nói chung thì pháp luật cần có những sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn nữa đối với chế định về QTV.
[1] Khoản 7 Điều 4 Luật Phá sản 2014.
[2] Thái Vũ - Cảnh Dinh, Hội thảo Tổng kết thực tiễn thi hành Luật Phá sản năm 2014, https://tapchitoaan.vn/hoi-thao-tong-ket-thuc-tien-thi-hanh-luat-pha-san-nam-2014, truy cập ngày 07/5/2024.
[3] Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, Thông báo báo danh sách quản tài viên, doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (cập nhật đến ngày 30/10/2023), https://sotuphap.hochiminhcity.gov.vn/thong-bao/-/asset_publisher/emZ19pfF3Yyq/content/id/2287197/thong-bao-danh-sach-quan-tai-vien-doanh-nghiep-hanh-nghe-quan-ly-thanh-ly-tai-san-tren-dia-ban-thanh-pho-ho-chi-minh-cap-nhat-den-ngay-30-10-2023, truy cập ngày 07/5/2024.
[4] Sở Tư pháp Thành phố Hà Nội, Danh sách Quản tài viên hành nghề với tư cách cá nhân (cập nhật đến tháng 6/2023), https://sotuphap.hanoi.gov.vn/danh-sach-quan-tai-vien-hanh-nghe-voi-tu-cach-ca-nhan-cap-nhat-den-thang-6-2023-110651.html, truy cập ngày 07/5/2024.
[5] Sở Tư pháp Thành phố Hà Nội, Danh sách doanh nghiệp hành nghề quản lý, thanh lý tài sản (Số liệu cập nhật đến tháng 7/2021), https://sotuphap.hanoi.gov.vn/danh-sach-doanh-nghiep-hanh-nghe-quan-ly-thanh-ly-tai-san-so-lieu-cap-nhat-den-thang-7-2021-150809.html, truy cập ngày 07/5/2024.
[6] Khoản 2 Điều 9 Luật Phá sản 2014.
[7] Nguyễn Thái Trường, Địa vị pháp lý của Quản tài viên theo pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, năm 2022, tr.124.
[8] Khoản 2 Điều 2 Nghị định số 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về Quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản.
Tòa án nhân dân tối cao tổ chức Tọa đàm về chế định Quản tài viên- Ảnh: Nguyên Anh
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận