Những quy định mới của BLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
Tòa Hình sự - Tòa án nhân dân tỉnh Hậu Giang
Đặt vấn đề
Tổng kết thực tiễn hơn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 đã khẳng định vai trò quan trọng của BLTTHS năm 2003 trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập, trong đó có: “Còn thiếu một số quyền quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội”.[1] Với mục tiêu thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành; trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành BLTTHS năm 2003, tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra qua thực tiễn, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi căn bản trong quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa. Theo đó, quy định về người bào chữa, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa cũng như các vấn đề có liên quan đến thủ tục bào chữa được tách thành một chương riêng (Chương V – Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự), thể hiện nhận thức của Nhà nước về tầm quan trọng của quyền bào chữa cũng như vai trò của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự.
1. Những quy định mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền của người bào chữa
1.1. Nhóm quyền tham gia vào các hoạt động tố tụng
– Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can”.
– Điểm c khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
BLTTHS quy định việc người bào chữa có mặt trong các hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác là một “quyền” và người bào chữa hoàn toàn chủ động chứ không phải lệ thuộc vào ý chí của Cơ quan điều tra – “nếu Điều tra viên đồng ý” – như quy định tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003. BLTTHS cũng mở rộng quyền cho người bào chữa được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can sau khi người có thẩm quyền kết thúc việc lấy lời khai.
– Điểm d khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này”.
Quy định này nhằm đảm bảo sự thống nhất với quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 73 BLTTHS. Để có thể có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can; có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác, người bào chữa có quyền được thông báo trước về thời gian và địa điểm. Điều 79 BLTTHS bắt buộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo quy định của BLTTHS. Như vậy, việc báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác cho người bào chữa biết, theo quy định của BLTTHS đã thành một “trách nhiệm”, “nghĩa vụ” của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chủ động thực hiện thay vì chỉ thực hiện khi có “đề nghị” của người bào chữa như quy định tại điểm b khoản 2 Điều 58 BLTTHS năm 2003. Về phía người bào chữa, việc có mặt trong một số hoạt động tố tụng là quyền của người bào chữa, họ có thể lựa chọn có mặt hoặc không có mặt. Vì vậy khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm thông báo của mình, nếu người bào chữa không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ các trường hợp hoãn phiên tòa vì lý do vắng mặt người bào chữa theo quy định của BLTTHS.
– Điểm m khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa”.
Để đảm bảo cho người bào chữa thực hiện quyền tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa, BLTTHS có nhiều quy định liên quan về sự có mặt của người bào chữa cũng như trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng tại phiên tòa. Cụ thể như sau:
+ Tại Điều 291, Điều 351 BLTTHS yêu cầu người bào chữa phải có mặt tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm để bào chữa cho người mà mình đã nhận bào chữa. Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử. Đặc biệt, đối với các vụ án chỉ định người bào chữa, Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa nếu người bào chữa vắng mặt, trừ trường hợp bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Điều 383 BLTTHS quy định trong trường hợp xét thấy cần thiết hoặc có căn cứ sửa một phần bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải triệu tập người bị kết án, người bào chữa và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm; nếu họ vắng mặt thì phiên tòa giám đốc thẩm vẫn được tiến hành. Trong khi đó, theo BLTTHS năm 2003, trừ trường hợp chỉ định người bào chữa mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, các trường hợp còn lại nếu người bào chữa vắng mặt – dù với bất cứ lý do gì và được triệu tập hợp lệ lần thứ bao nhiêu thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử (Điều 190, Điều 245). Những quy định nêu trên của BLTTHS thể hiện sự đề cao vai trò của người bào chữa đối với hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, đánh giá đúng tầm quan trọng và sự cần thiết có mặt người bào chữa tại phiên tòa hơn so với BLTTHS năm 2003.
+ Điều 307, Điều 309 và Điều 310 BLTTHS quy định người bào chữa được tham gia hỏi bị cáo về những chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa và tình tiết khác của vụ án; hỏi bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ; hỏi người làm chứng về những tình tiết của vụ án mà họ đã biết.
+ Điều 320 và Điều 322 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt; trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án; có quyền đưa ra đề nghị của mình. Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của người bào chữa. Nếu những ý kiến của người bào chữa chưa được Kiểm sát viên tranh luận thì Chủ tọa phiên tòa yêu cầu Kiểm sát viên phải đáp lại những ý kiến đó. Người bào chữa được tham gia tranh luận, trình bày ý kiến mà không bị hạn chế về thời gian (nhưng Chủ tọa phiên tòa có quyền cắt những ý kiến không liên quan đến vụ án và ý kiến lặp lại). Hội đồng xét xử phải lắng nghe, ghi nhận đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người tham gia tranh luận tại phiên tòa để đánh giá khách quan, toàn diện sự thật của vụ án. Trường hợp không chấp nhận ý kiến của những người tham gia phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải nêu rõ lý do và được ghi trong bản án.
Những quy định của BLTTHS về trình tự, thủ tục tại phiên tòa nêu trên thể hiện rõ nỗ lực của các nhà lập pháp nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Theo đó, Tòa án được đặt vào đúng vị trí là người “xét xử” – đưa ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng công khai giữa bên buộc tội là Kiểm sát viên và bên gỡ tội là người bào chữa và bị cáo. Những quy định này cũng thể hiện rõ nét về quyền bình đẳng giữa người bào chữa và Kiểm sát viên tại phiên tòa, nhận thức đúng đắn hơn về vị trí, vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự.
1.2. Nhóm quyền về kiểm tra, đánh giá, đề nghị, khiếu nại, kháng cáo
– Điểm e khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”.
So với quy định của BLTTHS năm 2003, có thể nhận thấy rằng quyền này của người bào chữa đã được mở rộng hơn – không chỉ dừng lại ở việc đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và một số người tham gia tố tụng mà còn được đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn (giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh), biện pháp cưỡng chế (áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản) khi nhận thấy các biện pháp này không còn cần thiết, không còn đủ điều kiện để áp dụng đối với người bị buộc tội. Thực tế cho thấy, do hạn chế về kiến thức pháp luật cũng như tâm lý mà người bị buộc tội thường không dám nêu lên ý kiến, quan điểm, đề nghị về các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với bản thân hoặc nếu có thì cũng không có đủ căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Do đó, việc quy định cho người bào chữa có quyền này là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, hạn chế sự tùy tiện của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
– Điểm g khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng theo quy định của Bộ luật này; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
Đây là một quyền hoàn toàn mới mà BLTTHS quy định cho người bào chữa. Theo đó, người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật mà người bào chữa cho rằng hoạt động này giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, khách quan, toàn diện hơn hoặc giúp cho việc làm sáng tỏ các tình tiết chứng minh sự vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Quyền đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bảo đảm cho người bào chữa thực hiện việc tham gia hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Thể hiện sự bình đẳng giữa bên buộc tội (Kiểm sát viên) và bên gỡ tội (người bào chữa) trong việc đề nghị Tòa án triệu tập người tham gia tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đến phiên tòa. Người bào chữa có thể đề nghị triệu tập người làm chứng, người làm gia tố tụng mà những người này biết được các tình tiết của vụ án liên quan đến sự vô tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Đặc biệt, trong trường hợp có dấu hiệu hoặc nghi ngờ về việc người bị buộc tội bị người có thẩm quyền tiến hành tố tụng ép cung, mớm cung, dùng nhục hình thì việc đề nghị triệu tập người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đối chất với người bị buộc tội, làm rõ dấu hiệu hoặc nghi ngờ về vấn đề nêu trên là hết sức cần thiết.
– Điểm i khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá”.
Đây cũng là một trong những quyền mới của người bào chữa so với BLTTHS năm 2003. Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ là rất quan trọng và cần thiết để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án, bảo đảm chứng cứ thu thập được đủ để giải quyết vụ án hình sự. Chính vì vậy, Điều 108 BLTTHS bắt buộc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án. Nếu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ thì người bào chữa có quyền yêu cầu họ phải thực hiện. Hơn thế nữa, người bào chữa cũng có quyền kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan bình đẳng với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
BLTTHS có nhiều quy định nhằm bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật có liên quan như: Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa, người khác tham gia phiên tòa đến xem xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được, xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án. Người bào chữa có quyền trình bày nhận xét của mình về vật chứng, về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án (Điều 312, Điều 314). Người bào chữa có quyền nhận xét về báo cáo, tài liệu của cơ quan, tổ chức và hỏi thêm người đại diện của cơ quan, tổ chức, người khác tham gia phiên tòa về những vấn đề liên quan đến báo cáo, tài liệu đó; có quyền nhận xét về kết luận giám định, định giá tài sản, được hỏi những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định, định giá tài sản hoặc có mâu thuẫn với những tình tiết khác của vụ án (Điều 315, Điều 316).
– Điểm e khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản”.
Đây cũng là một quyền mới của người bào chữa được BLTTHS ghi nhận, tương tự như quyền đề nghị tiến hành hoạt động tố tụng; đề nghị triệu tập người làm chứng, người tham gia tố tụng khác, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Pháp luật quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.[2] Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội. Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành thu thập chứng cứ để chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; nguyên nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt.
Trong trường người bào chữa nhận thấy việc thu thập chứng cứ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là chưa đầy đủ hoặc phiến diện – chỉ chú trọng thu thập chứng cứ buộc tội mà không quan tâm thu thập chứng cứ gỡ tội, hoặc người bào chữa không thể tự mình thu thập chứng cứ thì có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ. Bên cạnh đó, nếu có căn cứ cho rằng nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ; phát sinh vấn đề mới cần phải giám định liên quan đến tình tiết của vụ án đã có kết luận giám định trước đó; có nghi ngờ kết luận giám định, kết luận định giá lần đầu không chính xác hoặc có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết luận định giá lại về giá của tài sản cần định giá thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại hoặc ra văn bản yêu cầu định giá lại tài sản.
1.3. Nhóm quyền về thu thập thông tin; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
– Điểm a Khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội”. Nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện tốt chức năng bào chữa của mình, pháp luật cho phép người bào chữa có quyền gặp người bị buộc tội. Để bảo đảm cho người bào chữa thực hiện quyền gặp, hỏi người bị buộc tội, Điều 80 BLTTHS quy định để gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam, người bào chữa phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân. Điều 256 BLTTHS quy định tại phiên tòa, bị cáo đang bị tạm giam chỉ được tiếp xúc với người bào chữa cho mình, việc tiếp xúc với những người khác phải được chủ tọa phiên tòa cho phép. Có thể nhận thấy, quy định về trình tự, thủ tục để người bào chữa gặp người bị buộc tội là một quy định mới của BLTTHS. Việc luật hóa trình tự, thủ tục này chứng tỏ nhà lập pháp đã quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo đảm thực thi các quyền của người bào chữa trên thực tế, trong đó có quyền “gặp, hỏi người bị buộc tội”. Trình tự, thủ tục để người bào chữa gặp, hỏi người bị buộc tội bị bắt, tạm giữ, tạm giam cũng được thống nhất và đơn giản – chỉ cần phải xuất trình văn bản thông báo người bào chữa, Thẻ luật sư hoặc Thẻ trợ giúp viên pháp lý hoặc Chứng minh nhân dân hoặc thẻ Căn cước công dân.
– Điểm h khoản 1 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có quyền “thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu”. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa và đưa ra tài liệu đồ vật, yêu cầu đã được quy định tại Điều 58 BLTTHS năm 2003. BLTTHS kế thừa và có một bước phát triển mới đáng ghi nhận đó là bổ sung thêm cho người bào chữa quyền “thu thập chứng cứ” và “đưa ra chứng cứ”. BLTTHS cũng bỏ giới hạn về việc người bào chữa chỉ thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Thay vào đó, để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Trong trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập. Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa, người bào chữa phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập và chứng cứ do người bào chữa thu thập có giá trị như nhau và đều phải được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện để xác định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Quy định này thể hiện sự bình đẳng giữa các bên trong việc thu thập, đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; là cơ sở quan trọng góp phần bảo đảm thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
2. Những quy định mới về nghĩa vụ của người bào chữa
– Điểm đ Khoản 2 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ “có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án; trường hợp chỉ định người bào chữa theo quy định tại khoản 1 Điều 76 của Bộ luật này thì phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát”.
So với BLTTHS năm 2003 chỉ yêu cầu người bào chữa có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. BLTTHS đã bổ sung thêm phần nghĩa vụ phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong trường hợp chỉ định người bào chữa. Có mặt trong một số hoạt động tố tụng là quyền của người bào chữa, do đó, người bào chữa có thể lựa chọn tham gia hoặc không tham gia theo thông báo, triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án mà chủ yếu là triệu tập đến phiên tòa xét xử vụ án hình sự vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của người bào chữa và người bào chữa không được từ chối. Bởi lẽ phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ quá trình tố tụng, ở đó sẽ xác định được bị cáo có tội hay không có tội và trách nhiệm hình sự của bị cáo trong trường hợp họ bị tuyên là có tội. Người bào chữa tham gia phiên tòa không chỉ để sử dụng, đưa các chứng cứ, tài liệu mà người bào chữa thu thập được, trình bày nhận xét, ý kiến, quan điểm về các chứng cứ, tài liệu do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập mà còn để tranh luận nhằm bác bỏ sự buộc tội của Kiểm sát viên. Qua đó người bào chữa giúp làm sáng tỏ nội dung vụ án, xác định sự thật khách quan để Hội đồng xét xử có phán quyết đúng đắn, chính xác. Đây cũng là quy định nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Đối với trường hợp chỉ định người bào chữa, do đối tượng người bị buộc tội được chỉ định người bào chữa là những đối tượng đặc biệt, cần có sự bảo vệ, trợ giúp về mặt pháp lý trong suốt quá trình tố tụng nên pháp luật quy định người bào chữa phải có nghĩa vụ có mặt khi Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
– Điểm g khoản 2 Điều 73 BLTTHS quy định người bào chữa có nghĩa vụ “không được tiết lộ thông tin về vụ án, về người bị buộc tội mà mình biết khi bào chữa, trừ trường hợp người này đồng ý bằng văn bản và không được sử dụng thông tin đó vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
Có thể nhận thấy, điểm g khoản 2 Điều 73 BLTTHS là quy định mới bổ sung thêm so với BLTTHS năm 2003. Do đặc thù công việc, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bào chữa, người bào chữa có thể biết được thông tin về vụ án, về người bị buộc tội. Pháp luật quy định họ không được tiết lộ những thông tin này (trừ thông tin về người bị buộc tội có thể tiết lộ nếu được người bị buộc tội đồng ý bằng văn bản) vì nó sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, cơ quan, tổ chức, cá nhân. Pháp luật cho phép người bào chữa được đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu, thu thập các chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa nhưng chỉ được phép sử dụng những thông tin, tài liệu này cho mục đích bào chữa mà không được sử dụng vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Kết luận
Như vậy, với việc quy định các quyền và nghĩa vụ nêu trên cho người bào chữa, pháp luật tố tụng hình sự đã ghi nhận một cách chính thức các đảm bảo để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa (trong đó bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người bào chữa), đồng thời tạo cơ sở pháp lý để người bào chữa thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình tham gia bào chữa cho người bị buộc tội, bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của họ, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS đã có những sửa đổi và đặc biệt là bổ sung nhiều quyền mới của người bào chữa tiến bộ hơn, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền bào chữa là một bộ phận của quyền con người, Hiến pháp Việt Nam năm 2015 cũng như tương đối đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn tố tụng hình sự. Tuy nhiên, để đảm bảo cho các quy định về người bào chữa nói chung, quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nói riêng trong BLTTHS năm 2015 được áp dụng thống nhất trong thực tiễn, Tòa án nhân dân tối cao cần kịp thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành đồng thời phối hợp, đề xuất với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế các văn bản pháp luật hiện hành cho thống nhất, đồng bộ với những quy định mới của BLTTHS năm 2015./.
Ảnh trên bài: Luật sư công bố chứng cứ tại phiên tòa
[1] Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Tờ trình về dự án Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi), trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIII, 2015.
[2] Điều 15 BLTTHS.
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận