Cụ thể hóa việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân vào Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 gồm 9 chương, với 152 điều, có hiệu lực từ ngày 01/01/2025; được chỉnh lý với rất nhiều điểm mới đáng chú ý so với Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014. Trong đó, việc cụ thể hóa thực hiện quyền tư pháp của Tòa án nhân dân cũng đã được bổ sung, lồng ghép vào trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024.

Đặt vấn đề

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013, đây là bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới toàn diện, đáp ứng yêu cầu các yêu cầu xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế của nước ta. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” nên “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Ở nước ta, quyền tư pháp cùng với quyền lập pháp và quyền hành pháp tạo thành quyền lực thống nhất của Nhà nước, mục đích thực hiện quyền tư pháp là xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh, bổ sung, thay đổi hoặc chấm dứt từ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ do Tòa án thực hiện bằng thủ tục tố tụng chặt chẽ, dân chủ, công khai và công bằng, nhằm khôi phục, duy trì trật tự pháp luật, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, góp phần bảo đảm pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm minh.

TAND là cơ quan tài phán, có vai trò đặc biệt trong việc thực hiện quyền tư pháp. Để các quy định của Hiến pháp năm 2013 đi vào thực tiễn có hiệu quả, các quy định cần được cụ thể hóa bằng việc ban hành các đạo luật khác nhau, mà trong đó không thể không kể tới là Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TCTAND) năm 2014. Ngày 24/11/2014, Luật TCTAND năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 8; đánh dấu việc thể chế hóa các quan điểm lớn, tiến bộ của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về quyền tư pháp nhằm xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh.

Trải qua hơn 10 năm đi vào thực tiễn, kế thừa các quy định của Luật TCTAND năm 2014 và tiếp tục thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới; sau nhiều lần chỉnh lý, sửa đổi thì Luật TCTAND năm 2024 đã được thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2025 với nhiều điểm mới đáng chú ý. Trong đó không thể không kể đến việc Luật TCTAND năm 2024 đã cụ thể hóa việc thực hiện quyền tư pháp của hệ thống TAND.

1. Thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, quy định Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước về việc thực hiện quyền tư pháp của hệ thống TAND

Ở Việt Nam, quyền tư pháp và thực hiện quyền tư pháp là vấn đề mang tính chính trị, tính cương lĩnh. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, Đảng ta luôn khẳng định và ghi nhận trong các cương lĩnh: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công dân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

 Trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW), Đảng ta chỉ rõ: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét sử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao.

Hiến pháp năm 2013 ra đời nhằm thể chế hóa quan điểm chính trị,  pháp lý đó, khẳng định: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”1.

 Đồng thời Hiến pháp năm 2013 cũng quy định: “1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.

2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.

3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”2.

Qua các quy định tại Điều 2 và Điều 102 Hiến pháp năm 2013, tính thống nhất của quyền lực nhà nước, ở việc phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực nhà nước, ở việc khẳng định quyền tư pháp thuộc về Tòa án được thể hiện rõ ràng.

Trải qua hơn 15 năm đi vào thực tiễn áp dụng của Nghị quyết số 49-NQ/TW, hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày một hoàn thiện hơn, vai trò pháp luật và việc thực thi pháp luật cũng được các cơ quan chú trọng hơn nữa, việc phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện quyền tư pháp ngày càng có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta còn những hạn chế, bất cập như: quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; các tổ chức chính trị-xã hội và Nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm; cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước...[1]

Chính bởi những hạn chế và bất cập như vậy, ngày 09/11/2022 tại Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới (Nghị quyết số 27-NQ/TW) với nhiều nội dung nổi bật, đáng chú ý. Trong đó không thể không kể đến một trong những nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; xác định thẩm quyền của Tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp.

Nghị quyết số 27-NQ/TW đã xác định những nhiệm vụ trọng tâm đảm bảo phù hợp với thực tiễn và mô hình hệ thống tổ chức Tòa án là cơ sở để định hình, định hướng hoàn thiện hệ thống tư pháp nói chung, trong đó, Tòa án được đặt làm trung tâm. Luật TCTAND năm 2024 ra đời trong bối cảnh vừa thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết số 27-NQ/TW vừa kế thừa, bổ sung, hoàn thiện các quy định của hệ thống TAND với Luật TCTAND năm 2014. Đặc biệt là cụ thể hóa nội hàm các nội dung về việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án.

Do đó, có thể nói quyền tư pháp là một loại quyền lực nhà nước; quyền tư pháp là độc lập, có mối tương quan với các quyền lập pháp, quyền hành pháp và được thực hiện bằng phương thức tố tụng tư pháp; quyền tư pháp gắn liền với việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

 2. Nội hàm hóa việc thực hiện quyền tư pháp trong Luật TCTAND năm 2024

Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và thực tiễn đến nay, quy định này chưa được cụ thể hóa nên còn nhiều quan điểm, cách hiểu trái chiều, khác nhau thì Luật TCTAND năm 2024 đã căn cứ vào các cơ sở chính trị, pháp lý và thực tiễn để quy định cụ thể nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp tại Điều 3 Luật TCTAND năm 2024.

Theo đó, TAND thực hiện quyền tư pháp bao gồm quyền xét xử, quyết định về các tranh chấp, vi phạm pháp luật, về những vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của luật; bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử.

Nội dung về quyền thực hiện tư pháp là một vấn đề lớn và đặc biệt quan trọng, liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của TAND và các cơ quan tư pháp khác. Nội dung này đã tốn không ít giấy mực và được bàn luận rất nhiều tại các Hội thảo khoa học, các Hội nghị trên toàn quốc. Tuy nhiên, cơ sở để ban hành quyền thực hiện tư pháp của TAND là để cụ thể hóa Hiến pháp và thể chế hóa Nghị quyết số 27-NQ/TW. Hiến pháp năm 2013 không khẳng định Quốc hội, Chính phủ là cơ quan duy nhất thực hiện quyền lập pháp, hành pháp nhưng đều thống nhất chỉ có Quốc hội là cơ quan lập pháp, Chính phủ là cơ quan hành pháp[2] mặc dù trên thực tế việc thực hiện các quyền năng này có sự tham gia của nhiều cơ quan. Hiến pháp không quy định cơ quan khác thực hiện quyền tư pháp ngoài Tòa án. Do đó mà Luật TCTAND năm 2024 chỉ quy định nội dung thực hiện quyền tư pháp thuộc trách nhiệm của Tòa án, không quy định nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khác, không ảnh hưởng, chồng lấn đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan khác.

Các nội dung TAND thực hiện quyền tư pháp theo quy định Luật TCTAND năm 2024 đã được chỉnh lý, bổ sung cụ thể hơn so với quy định tại Luật TCTAND năm 2014. Với vai trò là cơ quan tiến hành hoạt động xét xử của Nhà nước, TAND luôn thể hiện rõ việc vận dụng đúng đắn các nguyên tắc dân chủ, hoạt động xét xử bảo vệ nhân dân một cách nhanh chóng và có hiệu quả nhất các lợi ích chính đáng và hợp pháp. Thông qua các hoạt động xét xử, sự tham gia của Nhân dân vào công xét xử cũng được bảo đảm, hoạt động hòa giải, đối thoại cũng được tăng cường, tránh tình trạng các vụ việc bị ách tắc gây mất lòng tin của cơ quan xét xử với Nhân dân. Hoạt động xét xử cũng phải đảm bảo nguyên tắc công bằng, coi đó là hạt nhân quan trọng nhất. Do đó mà trong quá trình thực hiện việc cải cách tư pháp theo một trong những nội dung trọng tâm mà Nghị quyết số 27-NQ/TW đã đề ra nói chung và hoạt động xét xử nói riêng phải chú ý tăng cường sự bình đẳng giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên để cung cấp được những chứng cứ và thể hiện một cách rõ ràng nhất các quan điểm trước Tòa án. Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã từng dạy Tòa án phải thực sự là cơ quan “phụng công thủ pháp, chí công vô tư”. Có như vậy, mọi người dân mới thực sự tin tưởng vào quyền thực hiện tư pháp của hệ thống TAND.

Kết luận

Hiện nay, nước ta đang trong quá trình hoàn thiện việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Công cuộc đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính và đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Nhu cầu của xã hội, của Nhân dân về thay đổi đất nước, về hiệu quả của nền tư pháp nước nhà cũng thay đổi theo nhịp sống của thời đại, đòi hỏi một hệ thống tư pháp ngày càng đầy đủ, hoàn thiện hơn nữa. Luật TCTAND năm 2024 ra đời là kết quả của sự giao thoa giữa những sự đổi mới đó; đồng thời là thể chế hóa đầy đủ các chính sách, chủ trương của Đảng, pháp luật Hiến pháp và pháp luật Nhà nước. Với quy định việc thực hiện quyền tư pháp của hệ thống TAND cụ thể, khái quát đã đánh dấu mốc quan trọng trong việc đặt những viên gạch đầu tiên về vấn đề nội hàm hóa quyền tư pháp vào trong các dự thảo Luật tiếp theo. Đây không chỉ là yêu cầu xuất phát từ đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu của Nhân dân, của xã hội trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Việt Nam.

 

TS. NGUYỄN THANH HẢI - ThS. HÀ HẢI NAM (Học viện Tòa án)

1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

2 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.

[1] Cổng thông tin điện tử Chính phủ, TOÀN VĂN: Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/toan-van-nghi-quyet-27-nq-tw-tiep-tuc-xay-dung-va-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-119221126114455251.htm, truy cập ngày 08/8/2024.[2] Điều 1 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 và Điều 1 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.