Quyền của các bên trong biện pháp bảo đảm cầm cố tài sản theo pháp luật Việt Nam và một số quốc gia
Trong bài viết này, tác giả sẽ phân tích các hạn chế trong việc tiếp cận quyền của các bên trong biện pháp bảo đảm cầm cố tài sản theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng như trên thực tiễn xét xử. Trên cơ sở so sánh với pháp luật của một số quốc gia, tác giả đưa ra các gợi mở nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong thời gian tới.
1.Quyền yêu cầu hoàn lại của bên cầm cố tài sản trong trường hợp bên cầm cố không phải là bên có nghĩa vụ
Cầm cố tài sản được xem là một biện pháp bảo đảm đối vật phổ biến trong đời sống dân sự. Cơ chế bảo đảm này được thiết lập dưới dạng một bên (bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ[1]. Trong quan hệ cầm cố tài sản, bên cầm cố có thể là bên có nghĩa vụ hoặc là bên thứ ba khác. Trước đây, nhiều tranh chấp xảy ra liên quan đến việc xác định bản chất của biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba trên thực tế[2]. Tuy nhiên, hiện nay về hiệu lực của việc bên thứ ba bảo đảm nghĩa vụ đã được làm rõ trong các văn bản hướng dẫn về biện pháp bảo đảm[3]. Thực tiễn xét xử cũng công nhận hợp đồng cầm cố tài sản của bên thứ ba không phải là bên có nghĩa vụ và áp dụng các quy định về cầm cố tài sản để xử lý. Chẳng hạn, trong một bản án, Hội đồng xét xử đã xác định: “Đến hạn thanh toán nợ mà ông Trình và bà Tâm không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ số nợ nêu trên thì ngân hàng Thương mại cổ phần Đông Á có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý, phát mãi một phần hai tài sản bảo đảm là: 50.000 cổ phiếu do công ty cổ phần vàng bạc đá quý Phú Nhuận phát hành thuộc sở hữu của bà Ngọ theo hợp đồng cầm cố giấy tờ có giá ….”[4].
Tuy nhiên, sau khi bên nhận cầm cố đã xử lý tài sản cầm cố để bảo đảm nghĩa vụ, trường hợp này, liệu rằng bên cầm cố có được quyền yêu cầu hoàn lại từ bên có nghĩa vụ hay không và trường hợp nếu có, phạm vi hoàn lại bao gồm những gì thì điều này chưa được quy định minh thị trong Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, cũng như thực tiễn xét xử. Nếu so sánh, dễ thấy trong khi bên bảo lãnh hiện nay pháp luật đã quy định cơ chế hoàn lại tương đối hoàn thiện cho bên bảo lãnh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ cho bên có quyền, trong khi biện pháp cầm cố tài sản của bên thứ ba (khác bên có nghĩa vụ) lại thiếu các cơ chế để bên cầm cố có thể thực hiện quyền này tương tự bên bảo lãnh[5]. Điều này gây bất lợi lớn cho bên cầm cố trong việc bảo vệ quyền lợi của mình một khi bảo đảm nghĩa vụ cho người khác.
Khi tham khảo kinh nghiệm một số quốc gia, vấn đề bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba (như cầm cố, thế chấp tài sản) được quy định tương đối minh thị. Theo BLDS Nhật Bản, người thứ ba là bên cầm cố đã dùng tài sản cầm cố để thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của người nhận cầm cố, thì trường hợp này người cầm cố có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải hoàn lại nghĩa vụ mà mình đã thực hiện tương tự như bên bảo lãnh[6]. Như vậy, Nhật Bản tiếp cận giải quyết vấn đề theo hướng trao cho bên cầm cố các quyền tương tự như quyền của bên bảo lãnh. Cụ thể, quyền của bên cầm cố trong trường hợp này sẽ thế quyền của bên có quyền (chủ nợ), do đó, bên cầm cố có thể hưởng các quyền liên quan đến các biện pháp bảo đảm được xác lập để bảo đảm cho nghĩa vụ ban đầu[7]. Tương tự theo pháp luật Đài Loan, bên thứ ba đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ toàn bộ cho con nợ hoặc mất quyền sở hữu đối với tài sản thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm, bên thứ ba được kế thừa các yêu cầu của bên có quyền (chủ nợ) chống lại con nợ trong phạm vi được yêu cầu thanh toán[8].
Như vậy, để bảo vệ quyền của bên cầm cố trong trường hợp bên cầm cố và bên có nghĩa vụ không phải là một. Pháp luật Việt Nam cần sớm có quy định cụ thể điều chỉnh vấn đề này. Dựa trên các kinh nghiệm của pháp luật các nước như đã phân tích, thiết nghĩ pháp luật cần sớm ghi nhận cơ chế hoàn lại sau khi bên bảo đảm đã thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ tương tự như trường hợp của bảo lãnh. Theo đó, trường hợp bên cầm cố không phải là bên có nghĩa vụ, bên cầm cố có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ mà mình đã thực hiện đối với bên có quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
2. Quyền khai thác, sử dụng đối với tài sản cầm cố của các bên
Việc không sử dụng, khai thác giá trị của tài sản bảo đảm làm ảnh hưởng lớn đến quyền lợi không chỉ của bên có quyền trong quan hệ bảo đảm, mà nhiều trường hợp còn làm phát sinh chi phí, gia tăng gánh nặng cho bên có nghĩa vụ. Do đó, việc sử dụng tài sản bảo đảm một cách hiệu quả luôn là vấn đề được chú trọng khi xây dựng pháp luật về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hiện đại.
Theo cách tiếp cận truyền thống về cầm cố tài sản, việc giao tài sản của người cầm cố cho người khác giữ chỉ nhằm mục đích thông tin cho người thứ ba về những ràng buộc pháp lý mà các bên giao kết hợp đồng cầm cố đã áp đặt lên tài sản đó; bản thân việc cầm cố không có tác dụng trực tiếp tước quyền sử dụng tài sản của người cầm cố trong thời gian cầm cố; và cũng bởi vì việc cầm cố theo nghĩa cổ điển không làm mất quyền sử dụng của người cầm cố mà người nhận cầm cố không có quyền sử dụng tài sản do mình cầm giữ[9].
Tuy nhiên, nếu hạn chế cả quyền sử dụng của cả hai bên trong quan hệ cầm cố, điều này dẫn đến việc tài sản cầm cố sẽ trở thành gánh nặng cho cả hai bên và từ đó, khiến cầm cố tài sản trở thành một biện pháp bảo đảm thiếu tính hiệu quả về mặt kinh tế. Pháp luật các quốc gia khắc phục điều này thông qua các quy định mang tính mở trong việc sử dụng tài sản bảo đảm; cụ thể, pháp luật các nước trao thêm các quyền kinh tế cho bên nhận cầm cố. Ví dụ theo BLDS Trung Quốc, Điều 430 có quy định cho phép người có quyền cầm cố có quyền thu lợi tức sinh ra của tài sản cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng. Lợi tức sinh ra được quy định ở khoản trên trước tiên cần phải dùng để bù đắp cho chi phí thu lợi tức sinh ra. Tại Nhật Bản, BLDS quy định bên nhận cầm cố có thể thu hoa lợi từ bất động sản cầm cố. Đối với tài sản cầm cố là bất động sản, bên nhận cầm cố bất động sản có quyền sử dụng và thu hoa lợi từ bất động sản là đối tượng của cầm cố phù hợp với cách thức mà bất động sản được sử dụng[10]. Ngoài ra, bên nhận cầm cố còn có quyền cầm cố lại tài sản cầm cố trong thời hạn của quyền của bên cầm cố, mà bên nhận cầm cố chịu trách nhiệm. Trong trường hợp này, bên nhận cầm cố phải chịu trách nhiệm về mọi tổn thất phát sinh từ việc cầm cố lại, kể cả do trường hợp bất khả kháng[11]. Giải pháp tương tự được tìm thấy trong BLDS Pháp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, người nhận cầm cố có quyền sử dụng tài sản cầm cố, như trong trường hợp của cầm cố bất động sản, hoa lợi, lợi tức sẽ được trừ vào tiền lãi và nợ chính, nếu không có lãi[12].
Khi so sánh, dễ thấy cách tiếp cận Việt Nam hiện nay vẫn còn theo hướng tập trung bảo vệ lợi ích của bên cầm cố. Theo đó, quyền sử dụng tài sản cầm cố bị hạn chế trong suốt thời hạn có hiệu lực của biện pháp cầm cố. Như vậy, bên nhận cầm cố chỉ được quản lý tài sản cầm cố chứ không có quyền khai thác công dụng của tài sản nếu không có thỏa thuận khác. Điều này gây ra nhiều bất cập cho biện pháp cầm cố tài sản[13]. Giải thích cách tiếp cận trên, có lập luận cho rằng bởi do người nhận cầm cố không phải là chủ sở hữu đích thực và việc giao tài sản từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố chỉ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, nên bên nhận cầm cố không được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố, nếu không có thỏa thuận[14]. Việc thỏa thuận về việc sử dụng tài sản cầm cố có thể là thỏa thuận ngầm định[15] hoặc thể hiện một cách minh thị. Việc không được sử dụng tài sản cầm cố dẫn đến hệ quả bất lợi cho bên nhận cầm cố, theo đó hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố cũng được trả lại cho bên cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác[16].
Bên cạnh đó, tài sản cầm cố bên cầm cố cũng không thể sử dụng, khai thác vì bên cầm cố phải chuyển giao tài sản này cho bên nhận cầm cố[17]. Thậm chí giả dụ bên cầm cố tài sản vẫn giữ lại tài sản cầm cố theo thỏa thuận giữa các bên, thì bên cầm cố nếu không được bên nhận cầm cố cho phép thì cũng không thể nào sử dụng tài sản này.[18] BLDS không nói về số phận của hoa lợi, lợi tức trong thời gian cầm cố được xử như thế nào. Tuy nhiên, khắc phục điều trên, Nghị định 21 có quy định rằng trong thời gian chờ xử lý tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm được khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm hoặc cho phép bên bảo đảm hoặc ủy quyền cho người thứ ba khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm theo đúng tính năng và công dụng của tài sản. Việc cho phép, ủy quyền hoặc xử lý hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm phải được lập thành văn bản. Trường hợp này, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ việc khai thác, sử dụng tài sản bảo đảm được dùng để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm cho bên nhận bảo đảm sau khi trừ các chi phí cần thiết cho việc khai thác, sử dụng tài sản[19].
Như vậy, nếu không có thỏa thuận giữa các bên về việc sử dụng tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm dường như sẽ hạn chế. Trường hợp này, giải pháp đưa ra gần giống như việc chấp nhận tài sản của mình ở trạng thái như bị “niêm phong” trong thời gian cầm cố[20]. Mặt khác, tài sản bị bỏ không và bên nhận cầm cố phải chịu các chi phí, thuế phát sinh trong suốt thời gian nêu trên. Để khắc phục điều này, pháp luật Việt Nam nên quy định theo hướng trao cho bên nhận cầm cố nhiều quyền hơn trên thực tế, đặc biệt là quyền sử dụng tài sản bảo đảm trong thời gian bảo đảm của bên nhận cầm cố, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Tiền thu được từ việc sử dụng tài sản cầm cố có thể được trừ vào nghĩa vụ chính được bảo đảm bằng cầm cố tài sản.
3. Quyền đòi lại tài sản cầm cố của bên nhận cầm cố
Trước đây, theo BLDS 2005, thì chuyển giao tài sản cầm cố là một điều kiện về hình thức để hợp đồng cầm cố có hiệu lực. Hợp đồng cầm cố chỉ phát sinh hiệu lực ở thời điểm chuyển giao này[21]. Cách tiếp cận này tương tự với pháp luật của nhiều quốc gia như Nhật Bản và Trung Quốc. Tuy nhiên, hiện nay đến BLDS 2015 đã có sự thay đổi theo hướng, hợp đồng cầm cố tài sản có hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác[22]. Như vậy, pháp luật hiện nay bên cầm cố có nghĩa vụ giao tài sản cầm cố theo đúng thỏa thuận và việc giao tài sản cầm cố không phải là một điều kiện có hiệu lực của cầm cố[23].
Đối với tài sản là bất động sản, cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố. Trường hợp bất động sản là đối tượng của cầm cố theo quy định của luật thì việc cầm cố bất động sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký[24]. Như vậy, về nguyên tắc, tài sản cầm cố, nếu là động sản thì sẽ có giá trị đối kháng với người thứ ba khi bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản. Việc phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm sẽ làm phát sinh quyền truy đòi đối với tài sản[25]. Do đó việc tài sản một khi phát sinh hiệu lực đối kháng thì bắt buộc các chủ thể khác phải tôn trọng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do mà tài sản cầm cố có thể rơi ra khỏi sự chiếm đoạt, quản lý của bên nhận cầm cố một cách hợp pháp. Trường hợp này bên nhận cầm cố có quyền lấy lại không thì giải pháp của pháp luật Việt Nam hiện nay vẫn chưa rõ.
Theo BLDS, Điều 311 khoản 1 BLDS năm 2015 quy định rằng: bên cầm cố phải giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố theo đúng thỏa thuận. Trường hợp nếu người cầm cố không chịu giao tài sản sau khi hợp đồng cầm cố được giao kết, thì người nhận cầm cố có quyền yêu cầu cưỡng chế việc giao tài sản cho mình. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh nếu tài sản này đang được nắm giữ hợp pháp bởi một bên thứ ba khác thì quyền này của bên nhận cầm cố dường như vẫn chưa được làm rõ. Có nhận định cho rằng, với tư cách là người chiếm hữu hợp pháp tài sản cầm cố, người nhận cầm cố có quyền đòi lại tài sản cầm cố ở bất cứ người nào. Quyền này thực chất là một yếu tố trong nội dung của quyền sở hữu mà người cầm cố đã chuyển giao cùng với việc chuyển giao tài sản cho người nhận cầm cố[26]. Bên cạnh đó, Điều 314 khoản 1 BLDS 2015 cũng có quy định về quyền của bên nhận cầm cố, theo đó, yêu cầu người đang chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật tài sản cầm cố trả lại tài sản đó. Tuy nhiên, nhận định này dường như chưa đủ thuyết phục và đặc biệt, sẽ không phù hợp nếu áp dụng đối với trường hợp nếu tài sản cầm cố được chuyển giao một cách hợp pháp cho bên thứ ba ngay tình thông qua giao dịch hợp pháp (ví dụ như việc chuộc lại tài sản, thừa kế, cầm giữ tài sản….).
Về nguyên tắc, bên cầm cố có quyền thực hiện quyền đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình theo Điều 11, 12 và Điều 166 của BLDS 2015 để đòi lại tài sản từ người thứ ba.[27] Tuy nhiên, khả năng bên nhận cầm cố có thể sử dụng các quyền nêu trên để lấy lại tài sản từ người thứ ba đang nắm giữ tài sản cầm cố hiện nay vẫn chưa được pháp luật quy định. Điều này dễ dẫn đến nguy cơ bên nhận cầm cố có thể thực hiện các quyền tự bảo vệ vượt quá phạm vi cho phép tại Điều 12 của BLDS[28], từ đó nguy cơ gây ra sự bất ổn trong xã hội. Như vậy, từ quy định pháp luật chỉ có thể suy ra rằng bên nhận cầm cố có quyền yêu cầu bên cầm cố tài sản buộc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng để gây sức ép cho bên cầm cố buộc phải tìm các giải pháp pháp lý lấy lại tài sản từ bên thứ ba đang nắm giữ để giao lại cho bên nhận cầm cố. Tuy nhiên, suy cho cùng, dù là giải pháp này thì cũng khiến bên nhận cầm cố phải mất thêm nhiều thời gian và công sức trong việc lấy lại tài sản cầm cố.
Khi so sánh, dễ thấy pháp luật Nhật Bản đã có hướng tiếp cận tương đối minh thị về vấn đề này, theo đó việc cầm cố động sản có thể, nếu vật cầm cố bị chiếm đoạt, chỉ được thu hồi bằng cách khởi kiện đòi lại quyền chiếm hữu.[29] Như vậy, pháp luật đã trao cho bên nhận cầm cố quyền trực tiếp yêu cầu bên thứ ba khác bàn giao tài sản và giải pháp pháp lý mà pháp luật đưa ra cũng tương đối phù hợp nhằm bảo đảm trật tự công: Đó là thực hiện tố quyền để đòi lại tài sản. Đây là hướng tiếp cận phù hợp và tiến bộ, thiết nghĩ pháp luật Việt Nam có thể tham khảo để sớm bổ sung thêm các quy định liên quan đến quyền yêu cầu đòi lại tài sản của bên nhận cầm cố, từ đó tạo ra hành lang pháp lý tương đối bảo đảm cho bên nhận cầm cố trong quan hệ cầm cố tài sản.
TAND tỉnh Đồng Nai xét xử vụ án tranh chấp dân sự về hợp đồng mua bán tài sản- Ảnh: Nhật Minh
[1] Tham khảo Điều 309 Bộ luật Dân sự 2015.
[2] Ví dụ tham khảo Bản án kinh tế sơ thẩm số 26/2011/KT-ST ngày 05/08/2011 và Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 48/2011/KDTM-ST ngày 22/09/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
[3] Theo đó, Điều 3 của Nghị định 21/2021/NĐ-CP đã xác định người có nghĩa vụ được bảo đảm có thể đồng thời hoặc không đồng thời là bên bảo đảm.
[4] Tham khảo Bản án số 1523/2015/DSPT ngày 10/12/2015 của Tòa án nhân dân TP. HCM.
[5] Theo Điều 340 BLDS 2015, bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
[6] Điều 351, 372 BLDS Nhật Bản.
[7] Điều 499, 500 BLDS Nhật Bản.
[8] Điều 879 BLDS Đài Loan.
[9] Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong Luật Dân sự Việt Nam, NXB Trẻ, năm 1999, trang 276.
[10] Điều 356 BLDS Nhật Bản
[11] Điều 348 BLDS Nhật Bản.
[12] Điều 2345 BLDS Pháp.
[13] Lê Vũ Nam (chủ biên), Giáo trình pháp luật về Bảo đảm nghĩa vụ, NXB ĐHQG TPHCM, năm 2021, trang 57.
[14] Đỗ Văn Đại, Luật Nghĩa vụ và Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ Việt Nam - Bản án và bình luận bản án 2 (xuất bản lần 3), NXB Hồng Đức, năm 2017, trang 200.
[15] Tham khảo Bản án số 72/2013/DS-PT ngày 30/1/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại TPHCM.
[16] Điều 316 BLDS 2015.
[17] Tham khảo Điều 309 BLDS 2015.
[18]Có nhận định cho rằng, lúc này quan hệ giữa bên người cầm cố với tài sản cầm cố không khác gì quan hệ giữa người nhận ký gửi và tài sản ký gửi: Người cầm cố chỉ là người nhận ký gửi đối với tài sản của chính mình. Tham khảo: Nguyễn Ngọc Điện, 1999, tlđd, trang 275.
[19] Điều 53 Nghị định 21/2021/NĐ-CP.
[20] Nghiêm trọng hơn đối với tài sản là bất động sản cầm cố, thì như một hệ quả, các bên đều không thể khai thác giá trị tài sản trong trường hợp này.
[21] Điều 328 BLDS 2005.
[22] Điều 310 khoản 1 BLDS 2015.
[23] Giải pháp trong luật Việt Nam hiện nay giống với BLDS 1995 trước đây, mà theo một tác giả đã từng nhận định rằng: Giải pháp này phù hợp với quan niệm được chấp nhận trong tập quán giao dịch theo đó, việc giao vật cầm cố chỉ là biện pháp thông tin cho người thứ ba về sự tồn tại của hợp đồng cầm cố, chứ không phải là điều kiện để hợp đồng cầm cố có giá trị. Tham khảo Nguyễn Ngọc Điện, 1999, trang 250.
[24] Tham khảo Điều 310 khoản 2 BLDS 2015.
[25] Điều 297 khoản 2 BLDS 2015.
[26] Trường Đại học Luật TPHCM, Giáo trình Pháp luật về Hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, năm 2013, trang 336.
[27] Khoản 1 Điều 166 BLDS 2015 có quy định: Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
[28] Điều 12 BLDS 2015 có quy định về quyền tự bảo vệ quyền dân sự của chủ thể như sau: Việc tự bảo vệ quyền dân sự phải phù hợp với tính chất, mức độ xâm phạm đến quyền dân sự đó và không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này.
[29] Điều 353 BLDS Nhật Bản
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận