Thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Bài viết tập trung phân tích quy định của pháp luật về thẩm giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân.
1. Đặt vấn đề
Việc trao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là phù hợp với lý luận chung về nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên, một số quy định của pháp luật về vấn đề này còn bất cập như việc trao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã chưa thực sự phù hợp với thực tiễn xét xử; việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo vị trí bất động sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán cũng còn khó khăn trong việc áp dụng trên thực tế... Do đó, trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích, đánh giá những bất cập trong quy định pháp luật về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
2. Khái quát về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải quyết thủ tục phá sản
Phá sản là vấn đề tất yếu của nền kinh tế thị trường nhằm loại bỏ những chủ thể sản xuất, kinh doanh yếu kém ra khỏi thị trường. Bởi vì, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính các chủ thể phải tự tìm kiếm các giải pháp nâng cao năng lực quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh. Nếu như “sức khỏe” của chủ thể sản xuất, kinh doanh yếu kém thì thị trường sẽ đào thải chủ thể sản xuất, kinh doanh đó. Ở Việt Nam, trước năm 1986 (trước thời kỳ đổi mới), với nền kinh tế quan liêu bao cấp thì không có vấn đề phá sản nên khái niệm phá sản hầu như không xuất hiện. Sau khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã lường trước được trong thị trường sẽ có những chủ thể kinh doanh không còn đủ năng lực cạnh tranh và bị phá sản. Do đó, Nhà nước đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ phát sinh từ phá sản. Văn bản quy phạm pháp luật có tính chuyên biệt đầu tiên về phá sản ở Việt Nam là Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Luật này bước đầu tạo lập hành lang pháp lý nhằm giải quyết vấn đề phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, hoàn cảnh ra đời của Luật này là khi nước ta bắt đầu chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường nên tình trạng phá sản chưa xảy ra nhiều và do đó kinh nghiệm trong giải quyết phá sản còn ít[1]. Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Quốc hội đã ban hành Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004. So với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, nhiều quy định của Luật Phá sản năm 2004 được mở rộng và cụ thể hơn. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều quan hệ kinh doanh, thương mại thay đổi nhanh chóng, việc ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, kinh doanh cũng có thể làm cho quá trình phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã được đẩy nhanh hơn. Do đó, nhiều quy định của Luật Phá sản năm 2004 không còn phù hợp nên Luật này được thay thế bởi Luật Phá sản năm 2014.
Trải qua quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về phá sản thì khái niệm phá sản đã ngày càng hoàn thiện hơn. Khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 quy định: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Theo Luật Phá sản năm 2014: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán” (khoản 1 Điều 4). Như vậy, điều kiện cần và đủ để một doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản đó là: Về nội dung, doanh nghiệp, hợp tác xã đó mất khả năng thanh toán; về hình thức, doanh nghiệp, hợp tác xã đó bị Tòa án tuyên bố phá sản. Bởi vì, về bản chất, phá sản là cuộc đòi nợ tập thể và là một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán[2] nên Tòa án nhân dân với “nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” (khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014) là cơ quan phù hợp nhất thực hiện việc giải quyết phá sản. Do thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất phức tạp nên Tòa án phải tham gia sâu vào các giai đoạn giải quyết thủ tục phá sản, từ khi ra quyết định mở thủ tục phá sản đến giám sát hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, đánh giá và kiểm soát việc lập và thực hiện phương án phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý tài sản, ra quyết định phá sản, phân chia tài sản... Chính vì vậy, cơ chế tố tụng phá sản phải tính đến các yếu tố đặc thù này hay nói cách khác, tố tụng phá sản là một thủ tục tư pháp đặc biệt.
3. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải quyết thủ tục phá sản
Hiện nay, cả Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện đều có thẩm quyền giải quyết phá sản. Thông thường, những vụ phá sản có tính chất phức tạp hơn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Điều đó phù hợp với tổ chức bộ máy nhà nước của Việt Nam hiện nay. Theo quy định tại Điều 8 Luật Phá sản năm 2014, thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án được quy định theo phương pháp vừa liệt kê, vừa loại trừ. Cụ thể:
Thứ nhất, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh:
- Thẩm quyền theo lãnh thổ: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã tại tỉnh đó.
Trước đây, Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Hợp tác xã năm 1996, Luật Hợp tác xã năm 2003 đều sử dụng cụm từ “đăng ký kinh doanh”. Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật Doanh nghiệp năm 2020, Luật Hợp tác xã năm 2012, Luật Hợp tác xã năm 2023 đã dùng cụm từ “đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã”. Quá trình chuyển đổi từ sử dụng thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” sang “đăng ký doanh nghiệp” đã thể hiện sự thay đổi lớn trong tư duy lập pháp nước ta. Thuật ngữ “đăng ký doanh nghiệp” và “đăng ký hợp tác xã” có phạm vi rộng hơn so với thuật ngữ “đăng ký kinh doanh”. “Đăng ký kinh doanh” là sự ghi nhận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về mặt pháp lý sự ra đời của chủ thể kinh doanh. Còn “đăng ký doanh nghiệp” và “đăng ký hợp tác xã” là bao gồm cả đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế, đăng ký thay đổi và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo khác. Do đó, Luật Phá sản năm 2014 dùng các thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” và “đăng ký doanh nghiệp”, “đăng ký hợp tác xã” là phù hợp với thực tiễn. Bởi vì, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã nào được thành lập theo quy định của pháp luật trước kia thì thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh; nếu doanh nghiệp, hợp tác xã nào thành lập theo quy định của pháp luật sau này thì thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp, đăng ký hợp tác xã.
Tuy nhiên, quy định xác định thẩm quyền giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã của Tòa án nhân dân theo phạm vi lãnh thổ là “tỉnh nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã” còn bất cập. Bởi vì, doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã ở thời điểm trước khi hoạt động tại nơi doanh nghiệp, hợp tác xã đặt trụ sở chính. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, có nhiều doanh nghiệp, hợp tác xã thay đổi địa chỉ trụ sở chính. Vậy, trong trường hợp này thì thẩm quyền vẫn thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã. Trong khi đó, Tòa án nơi doanh nghiệp, hợp tác xã bị mất khả năng thanh toán có trụ sở chính ở thời điểm hiện tại mới là cơ quan dễ dàng có được những thông tin về doanh nghiệp, hợp tác xã. Hơn nữa, việc đặt ra yêu cầu Tòa án nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký doanh nghiệp, hợp tác xã đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký hợp tác xã cũng gây ra khó khăn nhất định cho chính Tòa án đó. Bởi vì, có thể Tòa án đó phải đi thu thập những chứng cứ ở một địa bàn rất xa về mặt địa lý nên tốn kém về chi phí, công sức, thời gian.
- Thẩm quyền theo vụ việc: Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết phá sản thuộc một trong các trường hợp sau:
+ Vụ việc phá sản có tài sản ở nước ngoài hoặc người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài. Nội dung này được hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 26/8/2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản. Theo đó, “tài sản ở nước ngoài là tài sản được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự ở ngoài lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”.
Còn đối với người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài gồm: (i) Cá nhân không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Thiết nghĩ, việc dùng cụm từ “không có mặt” chưa thực sự phù hợp về kỹ thuật lập pháp, bởi vì, hiện nay để chỉ một cá nhân sinh sống tại không gian nào đó thì pháp luật sử dụng cụm từ “không lưu trú” hoặc “không cư trú”[3]; (ii) Pháp nhân không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện hoặc không có người đại diện theo quy định của pháp luật tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong số người tham gia thủ tục phá sản gồm cả doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán[4]. Trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán “không có trụ sở tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản” thì đó không phải là doanh nghiệp Việt Nam, hợp tác xã Việt Nam[5] và Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền giải quyết phá sản. Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau về cụm từ “người đại diện theo quy định của pháp luật”, bởi vì, “người đại diện theo quy định của pháp luật” bao gồm “người đại diện theo pháp luật” và “người đại diện theo ủy quyền” (Điều 137, Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015). Vì vậy, trường hợp người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không ở tại Việt Nam mà chỉ có người đại diện theo ủy quyền của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán ở tại Việt Nam thì rõ ràng không thuộc trường hợp “không có người đại diện theo quy định của pháp luật tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, người đại diện theo ủy quyền cho doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không thể am hiểu về doanh nghiệp, hợp tác xã như người đại diện theo pháp luật. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không có người đại diện theo pháp luật ở Việt Nam thì việc giải quyết phá sản trở nên khó khăn hơn.
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau. Quy định này chưa phù hợp với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019). Vì Luật này quy định, đơn vị hành chính cấp huyện gồm: Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (khoản 2 Điều 2). Do đó, quy định trong Luật Phá sản năm 2014 chưa tính đến “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương” trong khi nước ta đã có thành phố Thủ Đức trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau. Quy định này có điểm bất cập tương tự như đã phân tích ở trên khi liệt kê các đơn vị cấp huyện bị thiếu trường hợp “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương”. Ngoài ra, quy định này còn gây khó khăn cho việc xác định thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án. Bởi vì, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà là một số chủ thể như chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở... thì rất khó để biết doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh khác nhau hay không. Ngoài ra, tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, giả sử doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán đang tranh chấp về một bất động sản, thì người có quyền nộp đơn cũng khó biết được tình hình bên nợ có đang tranh chấp liên quan đến bất động sản ở nhiều tỉnh thành khác nhau hay không, ngay cả khi biết có tranh chấp thì cũng không thể xác định được khi nào bản án có hiệu lực. Trong khi đó, việc xác định thẩm quyền Tòa án để nộp đơn lại phụ thuộc vào kết quả của bản án xác định bất động sản đang tranh chấp thuộc về ai[6].
+ Vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Tòa án nhân dân cấp huyện) mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh đưa lên để giải quyết do tính chất phức tạp của vụ việc. Vụ việc phá sản có tính chất phức tạp là vụ việc không thuộc một trong các trường hợp nêu trên (được quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 8 Luật Phá sản năm 2014) và doanh nghiệp, hợp tác xã bị yêu cầu mở thủ tục phá sản thuộc một trong các trường hợp sau đây: (i) Có từ trên 300 (ba trăm) lao động trở lên hoặc có vốn điều lệ từ trên 100.000.000.000 (một trăm tỷ đồng) trở lên. (ii) Là tổ chức tín dụng; doanh nghiệp, hợp tác xã cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích; doanh nghiệp quốc phòng, an ninh theo quy định của pháp luật. (iii) Là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. (iv) Có khoản nợ được Nhà nước bảo đảm hoặc có liên quan đến việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, văn bản thỏa thuận về đầu tư với cơ quan, tổ chức nước ngoài. (v) Có giao dịch bị yêu cầu tuyên bố là vô hiệu theo quy định tại Điều 59 Luật Phá sản năm 2014.
Thứ hai, thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện:
Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính tại huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đó và không thuộc trường hợp thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết phá sản theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp huyện là nơi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có trụ sở chính phù hợp hơn so với cách xác định thẩm quyền giải quyết phá sản theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, trong quy định này cũng vấn thiếu đơn vị hành chính là “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương” tương tự như vấn đề đã phân tích ở trên.
Ngoài ra, Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP ngày 26/8/2016 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Phá sản (Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP) xác định cách giải quyết khi có sự thay đổi điều kiện trong quá trình Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý vụ việc phá sản đúng thẩm quyền. Theo đó, khoản 4 Điều 3 Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP quy định: “Trường hợp Tòa án nhân dân cấp huyện đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình giải quyết phá sản có sự thay đổi nơi cư trú, địa chỉ của người tham gia thủ tục phá sản hoặc xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ việc phá sản thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Luật Phá sản và hướng dẫn tại khoản 1 Điều này thì Tòa án nhân dân cấp huyện vẫn tiếp tục giải quyết”. Tuy nhiên, trường hợp ngược lại, Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình giải quyết phá sản có sự thay đổi nơi cư trú, địa chỉ của người tham gia thủ tục phá sản hoặc xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ việc phá sản thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ xử lý như thế nào thì Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP còn đang bỏ ngỏ.
4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải quyết thủ tục phá sản
Nhằm khắc phục bất cập trong quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết phá sản của Tòa án nhân dân và hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, tác giả đưa ra một số kiến nghị cụ thể như sau:
Một là, pháp luật cần trao thẩm quyền giải quyết phá sản cho Tòa án nhân dân nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính. Quy định này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết thủ tục phá sản vì việc thu thập thông tin, số liệu về doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ đơn giản hơn. Bởi vì, rõ ràng những thông tin, số liệu của doanh nghiệp, hợp tác xã chủ yếu lưu trữ tại nơi doanh nghiệp, hợp tác xã đó đặt trụ sở chính.
Hai là, sửa đổi quy định về “người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài”. Cụ thể, đối với quy định về người tham gia thủ tục phá sản là cá nhân thì cần sử dụng cụm từ “không lưu trú”, “không cư trú” thay vì sử dụng cụm từ “không có mặt” như hiện nay. Vì yêu cầu trong ngôn ngữ trong các văn bản quy phạm pháp luật là phải đảm bảo tính một nghĩa, khoa học, chính xác, không sử dụng ngôn ngữ mang nghĩa lóng, nghĩa bóng.
Ngoài ra, đối với quy định về người tham gia thủ tục phá sản là pháp nhân cần sửa đổi theo hướng tách trường hợp của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và đặt ra yêu cầu cao hơn. Theo đó, nếu người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không ở Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đó là trường hợp “người tham gia thủ tục phá sản ở nước ngoài”.
Ba là, bổ sung đơn vị “thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương” vào các quy định có liên quan đến xác định cấp đơn vị hành chính là cấp huyện để tạo nên sự thống nhất giữa Luật Phá sản và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, đồng thời phù hợp với thực tiễn ở Việt Nam đã có thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
Bốn là, bổ sung trường hợp Tòa án nhân dân cấp tỉnh đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đúng thẩm quyền nhưng trong quá trình giải quyết phá sản có sự thay đổi nơi cư trú, địa chỉ của người tham gia thủ tục phá sản hoặc xuất hiện tình tiết mới làm cho vụ việc phá sản không thuộc trường hợp thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn tiếp tục giải quyết.
Năm là, đối với trường hợp liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì cần quy định cụ thể hơn nhằm dễ dàng thực hiện trong thực tiễn. Trường hợp người có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì buộc phải có các tài liệu để khẳng định doanh nghiệp, hợp tác xã có hay không có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương. Trường hợp người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì không buộc phải có tài liệu như trên. Khi họ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà họ có tài liệu đến đâu thì xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân đến đó.
5. Kết luận
Bài viết đã phân tích những quy định của pháp luật trong xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân về giải quyết phá sản. Theo đó, việc trao thẩm quyền giải quyết phá sản cho cả Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân cấp huyện là phù hợp với chức năng của cơ quan này. Tuy nhiên, những quy định về xác định thẩm quyền của Tòa án nhân dân còn bất cập cả về kỹ thuật lập pháp và nội dung. Trên cơ sở những phân tích, đánh giá đó, bài viết đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về nội dung này như: (i) Pháp luật cần trao thẩm quyền giải quyết phá sản cho Tòa án nhân dân nơi doanh nghiệp, hợp tác xã có trụ sở chính; (ii) Sửa đổi một số vấn đề kỹ thuật lập pháp; (iii) Cần bổ sung cách giải quyết khi có những điều kiện của vụ việc phá sản thay đổi làm thay đổi thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh vào Nghị quyết số 03/2016/NQ-HĐTP; (iv) Đưa ra yêu cầu bắt buộc đối với người có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản về cung cấp tài liệu chứng minh doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thuộc trường hợp có hay không có bất động sản ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương./.
Theo tcdcpl.vn
[1]. Phan Thị Thu Hà (2010), Chuyên đề Khoa học xét xử: Tìm hiểu Luật phá sản, Viện Khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao, Nxb. Tư pháp, Tập 1.
[2]. TS. Dương Kim Thế Nguyên (2016), Khái niệm phá sản, thủ tục phá sản và những liên hệ đến Luật Phá sản năm 2014, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24 (328)/tháng 12, tr. 34 - tr. 44.
[3]. Điều 2 Luật Cư trú năm 2020 quy định: “Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc đơn vị hành chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã”; “Lưu trú là việc công dân ở lại một địa điểm không phải nơi thường trú hoặc nơi tạm trú trong thời gian ít hơn 30 ngày”.
[4]. Khoản 10 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 quy định: “Người tham gia thủ tục phá sản là chủ nợ; người lao động; doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán; cổ đông, nhóm cổ đông; thành viên hợp tác xã hoặc hợp tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã; người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã và những người khác có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết phá sản”.
[5]. Khoản 12 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam”.
[6]. Chế Văn Trung (2020), Pháp luật phá sản: Một số bất cập và giải pháp góp phần hoàn thiện, Tạp chí Công thương, Số 16, tháng 7, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/phap-luat-pha-san-mot-so-bat-cap-va-giai-phap-gop-phan-hoan-thien-75960.htm.
TAND tỉnh Bắc Kạn xét xử vụ án dân sự- Ảnh: Ma Thị Tô Hoài
Bài liên quan
-
Quy định về thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp của Luật Đất đai năm 2024 từ góc nhìn về thẩm quyền hủy quyết định cá biệt
-
Cần xem xét để xác định thẩm quyền theo cấp Tòa án khi hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
-
Vướng mắc về thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp người được hoãn chấp hành án thay đổi nơi cư trú
-
Tòa án thành phố H có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa Công ty A và ông B
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận