Thủ tục rút gọn theo quy định của BLTTHS năm 2015 - Một số vấn đề lý luận, bất cập và kiến nghị

Bài viết phân tích, làm rõ quy định về thủ tục rút gọn trong BLTTHS 2015. Trên cơ sở đó xác định những vấn đề bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đưa ra một số kiến nghị, đề xuất hoàn thiện quy định này trong thời gian tới.

1. Đặt vấn đề

Thủ tục rút gọn không phải là một thủ tục hoàn toàn mới trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam. Bởi vì từ năm 1946 đến năm 1974 đã có nhiều văn bản quy định về thủ tục rút ngắn để giải quyết các vụ án tiểu hình, quả tang và thủ tục này đã được áp dụng đến khi BLTTHS đầu tiên của nước ta ra đời (BLTTHS 1988). Nhưng sau một thời gian áp dụng BLTTHS 1988 thì thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đã đặt ra yêu cầu cần phải có một thủ tục đặc biệt để giải quyết nhanh các vụ án đơn giản, ít nghiêm trọng, nhằm tránh ùn tắc, ứ đọng án ở nhiều địa phương, tránh sự quá tải ở các nhà tạm giữ, trại tạm giam.

Chính vì vậy, đến BLTTHS 2003, thủ tục rút gọn đã lần đầu tiên được quy định tại một chương mới (Chương XXXIV) gồm 7 điều (từ Điều 318 đến Điều 324). Tuy nhiên, qua tổng kết hơn 10 năm áp dụng BLTTHS 2003 trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy thủ tục rút gọn được áp dụng rất ít trong tố tụng hình sự, nhất là giai đoạn điều tra. Điều này thể hiện rõ qua những vướng mắc, bất cập trong nhận thức cũng như thực tiễn áp dụng như: trong giai đoạn xét xử giữa thủ tục chung và thủ tục rút gọn chỉ khác nhau về thời hạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa Kiểm sát viên đọc quyết định truy tố thay cho việc đọc cáo trạng; số lượng án hình sự được áp dụng theo thủ tục rút gọn chiếm tỷ lệ rất thấp trong tổng số vụ án khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử...

Xuất phát từ thực trạng đó, trước yêu cầu cải cách tư pháp và đẩy nhanh quá trình xử lý tội phạm trong tình hình mới, ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLTTHS 2015 với nhiều nội dung sửa đổi một cách toàn diện, trong đó có những quy định mới về thủ tục rút gọn.

2. Những quy định của BLTTHS 2015 về thủ tục rút gọn

Một là, về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn: BLTTHS 2015 đã có bổ sung tại Điều 455 “Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định của Chương này và những quy định khác của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Theo đó, BLTTHS 2015 đã mở rộng phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn đến giai đoạn xét xử phúc thẩm, giúp cho thủ tục rút gọn được áp dụng rộng rãi hơn trong thực tiễn xét xử, thúc đẩy nhanh quá trình giải quyết án ở cấp phúc thẩm, khắc phục một phần tình trạng án tồn đọng, quá hạn ở cấp phúc thẩm hiện nay.

Hai là, về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn: Điều 456 BLTTHS 2015 quy định về điều kiện áp dụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khi có đủ các điều kiện sau đây: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; (4) Người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Trong đó, BLTTHS 2015 đã có sửa đổi tại điểm d khoản 1 Điều 456 “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”. Đồng thời, điều luật này cũng có sự bổ sung quan trọng theo hướng mở rộng các trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn, đó là trường hợp người thực hiện hành vi phạm tội ra tự thú tại điểm a khoản 1 Điều 456 BLTTHS 2015.

Ba là, về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn: Điều 457 BLTTHS 2015 quy định về quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có những sửa đổi một cách căn bản so với Điều 320 BLTTHS 2003. Cụ thể là: Thẩm quyền áp dụng thủ tục rút gọn thuộc về 03 cơ quan là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thay vì trước đây chỉ có Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có thẩm quyền quyết định; xác định rõ trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn khi có đủ điều kiện. Trên cơ sở đó khắc phục tình trạng “tùy nghi” trong thực tiễn áp dụng; thời điểm áp dụng thủ tục rút gọn không phải là sau khi khởi tố vụ án như trong quy định BLTTHS 2003 mà là sau 24 giờ kể từ khi vụ án có đủ điều kiện; bổ sung quy định mới về việc hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn (Điều 458)...

Bốn là, về hoạt động điều tra, truy tố theo thủ tục rút gọn: BLTTHS 2015 quy định rõ trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định đề nghị truy tố, Cơ quan điều tra phải giao quyết định đề nghị truy tố cho bị can hoặc người đại diện của bị can, gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ để họ thực hiện được ngay các quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hình sự và chuyển quyết định đề nghị truy tố cùng hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát; bổ sung cho Viện kiểm sát có thẩm quyền không truy tố bị can và ra quyết định đình chỉ vụ án...

Năm là, về hoạt động xét xử theo thủ tục rút gọn: Đây là nội dung trọng tâm của việc sửa đổi các quy định về thủ tục rút gọn nhằm thể chế hóa kịp thời yêu cầu của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 “xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn...”. Trong đó, các nội dung bổ sung quy định như: trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án phải gửi quyết định đó cho Viện kiểm sát cùng cấp, giao cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, gửi cho người bào chữa, bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ; quy định về phiên tòa xét xử sơ thẩm (phiên tòa do một Thẩm phán tiến hành, không có Hội thẩm; sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa thì Kiểm sát viên công bố quyết định truy tố còn các hoạt động khác được thực hiện theo thủ tục chung...); quy định về thủ tục xét xử phúc thẩm được thực hiện bởi một Thẩm phán, phiên tòa phúc thẩm được tiến hành theo thủ tục chung nhưng không có phần nghị án...

Sáu là, về việc tạm giữ, tạm giam và thời hạn để điều tra, truy tố, xét xử: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi theo hướng tăng thời hạn điều tra, truy tố, xét xử, theo đó cũng tăng thời hạn tạm giam cho tương ứng. Cụ thể: thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam để điều tra là 20 ngày (tăng 8 ngày); thời hạn truy tố và tạm giam để truy tố là 05 ngày (tăng 01 ngày); thời hạn xét xử sơ thẩm và tạm giam để xét xử là 17 ngày (tăng 03 ngày); thời hạn xét xử phúc thẩm và tạm giam để xét xử lần đầu tiên được quy định là 22 ngày.

3. Một số bất cập, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

3.1 Bất cập, vướng mắc

Như vậy có thể thấy, BLTTHS 2015 quy định thủ tục rút gọn cụ thể, rõ ràng hơn so với BLTTHS 2003. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng vẫn còn những bất cập, vướng mắc như sau:

Một là, Điều 456 BLTTHS 2015 quy định để áp dụng thủ tục rút gọn phải đáp ứng được 4 điều kiện, đó là: người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó tự thú; sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng. Nếu không đáp ứng đủ 04 điều kiện nêu trên thì không được giải quyết theo thủ tục rút gọn mà phải giải quyết theo thủ tục tố tụng chung. Thực tế, có trường hợp đáp ứng được các điều kiện: sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tội phạm thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng thuộc trường hợp phạm tội đơn giản, người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng, tuy nhiên người phạm tội đầu thú mà không phải tự thú nên cơ quan tiến hành tố tụng không thể áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết.

Hai là, hiểu như thế nào là “sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” và “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng”, phụ thuộc vào đánh giá của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Đây là quy định tùy nghi nên nhận thức và áp dụng hai điều kiện này chưa thống nhất, dẫn đến có những vụ án nội dung, tính chất tương tự nhau, nhưng có trường hợp áp dụng, có trường hợp lại không áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết...

Ba là, Điều 458 BLTTHS 2015 quy định: “Trong quá trình áp dụng thủ tục rút gọn, nếu một trong các điều kiện quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều 456 của Bộ luật này không còn hoặc vụ án thuộc trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn và giải quyết vụ án theo thủ tục chung”. Vậy trường hợp Thẩm phán được phân công giải quyết, xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn ra quyết định “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” thì Viện kiểm sát hay Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Vấn đề này vẫn còn có ý kiến không thống nhất.

Bốn là, theo quy định, Tòa án xét xử vụ án hình sự theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử, Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án. Như vậy, quy định này bắt buộc trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử Tòa án phải mở phiên tòa xét xử vụ án mà không được kéo dài thời hạn mở phiên tòa như xét xử theo thủ tục chung. Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, Tòa án không thể mở phiên tòa trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử. Trường hợp này giải quyết như thế nào?

Năm là, khoản 5 Điều 457 BLTTHS 2015 quy định: Bị can, bị cáo hoặc người đại diện của họ có quyền khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là 5 ngày kể từ ngày nhận được quyết định và được cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Vấn đề đặt ra là ở giai đoạn Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát để truy tố theo thẩm quyền, Viện kiểm sát xét thấy có đủ điều kiện nên ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Theo quy định tại khoản 3 Điều 459 thì thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố không quá 05 ngày. Như vậy, khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn Viện kiểm sát giao quyết định này cho bị can, đồng thời cũng áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can là 05 ngày. Đến ngày thứ 5 thì bị can khiếu nại quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Viện kiểm sát có thời gian 3 ngày để giải quyết khiếu nại trên. Trong trường hợp, lệnh tạm giam (đã hết) đối với bị can phải xử lý như thế nào?

3.1. Kiến nghị hoàn thiện

Trên cơ sở các quy định của BLTTHS 2015 về thủ tục rút gọn cũng như những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng đã và đang đặt ra những yêu cầu đối với các cơ quan có thẩm quyền trong việc sửa đổi, bổ sung BLTTHS cũng như ban hành các văn bản hướng dẫn để thực hiện thống nhất. Trong đó cần tập trung vào một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đề nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 456 BLTTHS 2015 theo hướng: Người phạm tội bị bắt quả tang hoặc người đó đầu thú, tự thú” để áp dụng thủ tục rút gọn trong trường hợp người phạm tội đầu thú cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu giải quyết nhanh các vụ án hình sự, tránh ứ đọng án.

Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu, ban hành hướng dẫn cụ thể các điều kiện: “Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng” “người phạm tội có nơi cư trú, lý lịch rõ ràng” quy định tại điểm b và d khoản 1 Điều 456 BLTTHS 2015, tránh trường hợp áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, giữa các địa phương khác nhau.

Thứ ba, cần hướng dẫn trường hợp: Thẩm phán được phân công xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn ra quyết định “trả hồ sơ để điều tra bổ sung” thì Viện kiểm sát hay Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn. Đây cũng là điểm rất vướng trong thực tiễn áp dung cần nhanh chóng được hoàn thiện, tránh xác định không đúng thẩm quyền dẫn đến đùn đẩy, hoặc chồng chéo trong việc ra các quyết định tố tụng.

Thứ tư, hướng dẫn trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan Tòa án không thể mở phiên tòa trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày ra quyết định xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc bổ sung căn cứ hoãn phiên tòa tại khoản 1 Điều 297 BLTTHS 2015: ‘‘Tòa án hoãn phiên tòa khi thuộc một trong các trường hợp:…đ) Do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan”.

Thứ năm, đối với trường hợp giải quyết khiếu nại quyết định thủ tục rút gọn đối với bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong các giai đoạn tố tụng, cần phải sửa đổi quy định về thời hạn tạm giam đối với bị can, bị cáo để đảm bảo giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật.

Hiện nay, khoản 3 Điều 459, thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra không quá 20 ngày, trong giai đoạn truy tố không quá 05 ngày, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không quá 17 ngày, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không quá 22 ngày. Chúng tôi đề xuất sửa đổi theo hướng bổ sung Điều 459: “4. Trường hợp bị can, bị cáo khiếu nại các hành vi quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra thì thời hạn tạm giam để điều tra được gia hạn nhưng không quá 30 ngày; trong giai đoạn truy tố thì thời hạn tạm giam được gia hạn nhưng không quá 10 ngày; trong giai đoạn xét xử sơ thẩm thì thời hạn tạm giam được gia hạn nhưng không quá 20 ngày; trong giai đoạn xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam được gia hạn nhưng không quá 25 ngày”.

Bên cạnh đó, để thực hiện có hiệu quả các quy định về thủ tục rút gọn cần chú ý đến việc tăng cường Điều tra viên, xây dựng cơ sở vật chất, đồng bộ các công tác hỗ trợ điều tra khác như giám định pháp y, tư pháp, tài chính, về xác minh nhân thân bị can... Không ngừng tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc giải quyết các vụ án theo thủ tục tút gọn nhằm ngăn ngừa khuynh hướng chủ quan, phiến diện có thể dẫn đến những sai lầm, thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ án từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bổ sung quy định xử lý trách nhiệm đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trực tiếp giải quyết vụ án không áp dụng thủ tục rút gọn khi vụ án có đủ điều kiện. Đưa tiêu chí giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn vào tiêu chí xét thi đua, cũng như xem xét tái bổ nhiệm lại các chức danh tư pháp nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

 

ĐÀO MINH HIẾU (Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân)

Tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3. Nguyễn Thị Thanh Vân, Thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/thu-tuc-rut-gon-trong-to-tung-hinh-su, truy cập ngày 24/4/2024.

 

Toà án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử vụ án hình sự- Ảnh: Phan Thị Quỳnh Như