Xác định việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập theo quy định của BLTTDS 2015
Bài viết phân tích và nêu quan điểm về việc xác định việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập theo quy định của BLTTDS 2015, là vấn đề còn nhiều tranh cãi và nhiều ý kiến trái chiều.
BLTTDS 2015 được ban hành dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định của BLTTDS 2004. Dựa trên bản chất của các tranh chấp dân sự là sự bất đồng, xung đột giữa quyền và lợi ích giữa các bên đương sự nên tinh thần xuyên suốt chủ đạo và cũng là nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự là quyền tự định đoạt của các đương sự. Khi cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, chủ thể có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ, bị đơn có quyền có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền có yêu cầu độc lập đối với yêu cầu của bị đơn hoặc của nguyên đơn. Khi đưa ra các yêu cầu trên, trong những trường hợp luật định các chủ thể trên có quyền bổ sung, thay đổi cho yêu cầu của mình. Thực tiễn xét xử cho thấy việc xác định chính xác việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc lập trong trường hợp nào được chấp nhận và trường hợp nào không được chấp nhận là vấn đề tranh cãi.
1. Quy định về yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
1.1. Yêu cầu khởi kiện
Điều 4 BLTTDS 2015 quy định: “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
2. Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.
Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng.
Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định”.
Từ quy định trên, có thể thấy nội dung cơ bản của Điều luật về yêu cầu khởi kiện này bao gồm các nội dung chính sau:
Về chủ thể: Chủ thể có quyền yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự theo Điều 4 BLTTDS là các chủ thể quy định tại Điều 168 BLTTDS gồm: Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền. Như vậy, về chủ thể có quyền yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự theo quy định tại BLTTDS vẫn giữ nguyên so với BLTTDS 2004 (bổ sung năm 2011).
Về mục đích của yêu cầu khởi kiện: BLTTDS 2015 đã mở rộng mục đích hướng tới của yêu cầu khởi kiện vụ án, theo đó: Cơ quan, tổ chức, cá nhân không chỉ có quyền khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác mà nay còn có thể khởi kiện để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước.
Quyền yêu cầu khởi kiện là tuyệt đối, tối thượng: Quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia các giao dịch dân sự được pháp luật bảo vệ, trong mọi trường hợp khi có đơn yêu cầu khởi kiện vụ án dân sự Tòa án không được từ chối giải quyết vì lý do chưa có điều luật áp dụng. Đây là quy định mới, tiến bộ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân một cách tuyệt đối. Khi giải quyết các vụ án chưa có điều luật áp dụng thì Tòa án áp dụng Tập quán (Điều 5 BLDS năm 2015), trong trường hợp không có thỏa thuận, pháp luật không quy định hoặc không có tập quán để áp dụng thì áp dụng nguyên tắc tương tự pháp luật (Điều 6, BLDS năm 2015). Trong trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng nguyên tắc cơ bản của BLDS, án lệ và lẽ công bằng. Về mặt lý luận, nội hàm các quy định pháp luật về vấn đề này được các nhà làm luật xây dựng có giá trị thuyết phục; tuy nhiên, thực tiễn thi hành có tạo ra sự khó khăn cho các cơ quan tiến tụng hay không là vấn đề cần chờ trong quá trình áp dụng.
1.2. Yêu cầu phản tố
Đặc thù của quan hệ dân sự là giữa các bên trong giao dịch dân sự cùng thỏa thuận những điều khoản ràng buộc các bên. Chính vì vậy, pháp luật luôn tạo sự công bằng cho các bên về quyền và nghĩa vụ trong quá trình tham gia tố tụng. Khi một bên chủ thể trong giao dịch dân sự cho rằng quyền và nghĩa vụ của mình bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện chủ thể đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình; bên bị khởi kiện cho rằng yêu cầu của phía bên kia là không đúng, sai sự thật có quyền phản bác và tố ngược lại bên kia. Mặc dù tố tụng dân sự không hề có khái niệm về yêu cầu phản tố; nhưng chúng ta có thể hiểu đơn giản như sau: “Yêu cầu phản tố là yêu cầu của bị đơn trong trường hợp luật định có quyền đưa ra yêu cầu phản bác ý kiến của nguyên đơn hoặc yêu cầu tố ngược lại nguyên đơn khi cho rằng nguyên đơn là bên xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn”.
Chủ thể yêu cầu: Là bị đơn trong vụ án dân sự. Khoản 4 Điều 72 BLTTDS về quyền của bị đơn: “Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn”.
Thời điểm đưa ra yêu cầu: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Điều kiện để được coi là yêu cầu phản tố: Yêu cầu của bị đơn chỉ được coi là yêu cầu phản tố khi đáp ứng được một trong các điều kiện sau:
- Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
- Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;
- Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
1.3. Yêu cầu độc lập
Chủ thể yêu cầu: Là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự. Điểm b khoản 1 Điều 73 BLTTDS về quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: “Đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn”.
Thời điểm đưa ra yêu cầu: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Điều kiện để được coi là yêu cầu độc lập: Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập. Một yêu cầu được coi là yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây:
- Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ;
- Yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết;
- Yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.
2. Xác định việc, bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu cầu độc
Trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn có quyền , bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện; bị đơn có quyền , bổ sung, thay đổi yêu cầu phản tố; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án có quyền bổ sung, thay đổi yêu cầu độc lập. Tuy nhiên tùy từng giai đoạn, quá trình tố tụng mà cùng là một nội dung yêu cầu của đương sự nhưng đưa ra ở thời điểm này thì sẽ được Tòa án chấp nhận xem xét; đưa ra ở thời điểm khác thì sẽ không được Tòa án chấp nhận xem xét. Để làm rõ vấn đề này chúng tôi xin đi phân tích việc, bổ sung, thay đổi yêu cầu trước khi thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
2.1. Việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trước khi mở phiên tòa
Nếu như tại Điều 244 BLTTDS quy định: “1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Tuy nhiên, quy định này được áp dụng tại phiên tòa, vấn đề đặt ra là trước khi mở phiên tòa mà đương sự có bổ sung, thay đổi yêu cầu của mình mà việc thay đổi, bổ sung đó vượt quá phạm vi khởi kiện thì có được chấp nhận hay không?
Pháp luật tố tụng dân sự không hề có điều luật quy định chi tiết vấn đề này. Có quan điểm cho rằng: “Theo quy định tại khoản 2 Điều 71 BLTTDS năm 2015 thì nguyên đơn có quyền thay đổi nội dung khởi kiện; rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện và khoản 4 Điều 70 BLTTDS quy định đương sự có quyền giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu khởi kiện theo quy định của Bộ luật này. Tuy nhiên, khoản 1 Điều 5 BLTTDS năm 2015 quy định: “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”.
Như vậy, việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện là phải trong phạm vi đơn khởi kiện ban đầu và việc thay đổi, bổ sung này phải được thực hiện trước khi mở phiên toà thì được Toà án chấp nhận. Còn trường hợp việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu thì không được Toà án chấp nhận.
Đối với việc thay đổi địa vị tố tụng trước khi mở phiên tòa thì tại điểm b khoản 2 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định trường hợp nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện nhưng bị đơn không rút hoặc chỉ rút một phần yêu cầu phản tố thì Tòa án ra quyết định đình chỉ đối với yêu cầu của nguyên đơn và bị đơn sẽ trở thành nguyên đơn còn nguyên đơn trở thành bị đơn”.
Như vậy tinh thần quan điểm trên thì để được chấp nhận sự thay đổi bổ sung yêu cầu thì phải đáp ứng 2 điều kiện là phải trong phạm vi khởi kiện ban đầu và phải được thực hiện trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu thì không được Tòa án chấp nhận. Quá trình nghiên cứu và thực tiễn xét xử thì chúng tôi không đồng tình với quan điểm trên, bởi theo quan điểm này đã làm mất đi quyền thay đổi và bổ sung yêu cầu của đương sự. Thay đổi được hiểu là làm khác đi quan hệ pháp luật; bổ sung nghĩa là thêm yêu cầu; như vậy gần như 100% việc thay đổi bổ sung yêu cầu của đương sự đều không được chấp nhận vì vượt quá phạm vi đơn khởi kiện; vậy quy định của các nhà làm luật là hình thức và không có trường hợp nào được vận dụng. Cách hiểu như vậy là không chính xác.
Ví dụ:
Việc thay đổi yêu cầu của đương sự: Trong vụ án chia tài sản chung sau ly hôn giữa A và B. Tài sản chung là thửa đất 200m2. A đề nghị Tòa án chia tài sản chung này và đề nghị được nhận 100m2 đất. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, do A không có nhu cầu sử dụng đất và thấy B có nhu cầu sử dụng đất nên A đã thay đổi yêu cầu khởi kiện xin được nhận tiền tương ứng với giá trị diện tích đất được nhận.
Việc bổ sung yêu cầu của đương sự: A đòi B số tiền 50.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 06/4/2016; trong giai đoạn chuẩn bị xét xử A tìm được thêm giấy vay tiền 20.000.000 đồng ngày 04/6/2016 giữa A và B. A đã bổ sung yêu cầu khởi kiện đòi thêm 20.000.000 đồng theo giấy vay tiền ngày 04/6/2016.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 Điều 70 BLTTDS 2015 quy định đương sự có quyền: “Giữ nguyên, thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu theo quy định của Bộ luật này”; khoản 2 Điều 203 BLTTDS: “Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật này;
b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng;
d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này;
e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ luật này”; điểm a khoản 2 Điều 210 BLTTDS: “2. Khi kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán công bố tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, hỏi đương sự về những vấn đề sau đây:
a) Yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc , bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết;”.
Ngoài ra tại mục 7, Phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC của TANDTC ngày 07/4/2017 giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ của Tòa án có hướng dẫn: “…Tòa án chấp nhận việc nguyên đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu việc thay đổi, bổ sung được thực hiện trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải…”.
Từ nội dung các quy định trên thì việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự được pháp luật thừa nhận là quyền của đương sự. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, một trong những nhiệm vụ của Thẩm phán là Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác và Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng. Như vậy, thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải mới là thời điểm phạm vi yêu cầu của đương sự được xác định. Trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện và Tòa án phải chấp nhận và hướng dẫn đương sự cũng như yêu cầu đương sự nộp thêm tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu vượt quá này.
2.2. Việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập tại phiên tòa
BLTTDS đã dành một điều luật riêng quy định về vấn đề này. Tại khoản 1 Điều 244 BLTTDS: “1. Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu”. Theo quy định trên, khi đương sự có yêu cầu về việc thay đổi, bổ sung tại phiên tòa thì hội đồng xét xử sẽ chấp nhận việc thay đổi, bổ sung đó nếu yêu cầu thay đổi bổ sung của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Việc xác định vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu (sau đây gọi chung các yêu cầu trên là yêu cầu khởi kiện) trong thực tiễn xét xử là một vấn đề tranh cãi, có nhiều quan điểm khác nhau. Cụ thể:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu là việc yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự làm thay đổi hoặc phát sinh quan hệ pháp luật mới khác so với quan hệ pháp luật xác định ban đầu. Chỉ khi làm thay đổi hoặc phát sinh quan hệ pháp luật mới khác so với quan hệ pháp luật xác định ban đầu thì mới là vượt quá phạm vi.
Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu B phải trả tiền thuê nhà theo hợp đồng thuê nhà. Tại phiên tòa, A yêu cầu B trả nợ số tiền 100.000.000 đồng theo hợp đồng vay tiền. Yêu cầu này của A làm phát sinh thêm quan hệ mới quan hệ vay tiền nên yêu cầu này là vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu và không được chấp nhận.
Quan điểm thứ hai cho rằng:
Vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu là việc yêu cầu thay đổi, bổ sung của đương sự không làm thay đổi hoặc phát sinh quan hệ pháp luật mới khác nhưng làm tăng giá trị nghĩa vụ cho bị đơn, gây bất lợi hơn cho bị đơn thì đều bị coi là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu và không được chấp nhận.
Trước đây, về vấn đề này được hướng dẫn tại Điều 32 Nghị quyết 05/2012/HĐTPTANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ hai thủ tục giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm của BLTTDS: “Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên tòa chỉ được Hội đồng xét xử chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”
Nội dung hướng dẫn tại Nghị quyết 05/2012 nêu trên là không rõ ràng và chưa giải quyết câu hỏi nêu trên. Theo ý kiến cá nhân chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai bởi việc thay đổi bổ sung yêu cầu chỉ cần làm tăng giá trị nghĩa vụ cho bị đơn là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện và không được HĐXX chấp nhận. Chúng tôi xin đi phân tích ví dụ sau để làm rõ hơn quan điểm này:
Ví dụ: A khởi kiện B yêu cầu trả 100.000.000 đồng B vay của A theo nội dung hợp đồng vay tiền ngày 06/4/2016. Tại đơn khởi kiện và kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử, A chỉ yêu cầu đòi gốc và không yêu cầu B trả tiền lãi. Đến phiên tòa sơ thẩm, A xin bổ sung thêm yêu cầu về lãi suất chậm trả đối với khoản vay trên. Yêu cầu của A không làm phát sinh quan hệ mới, không làm thay đổi quan hệ pháp luật đã được Tòa án xác định là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản; tuy nhiên yêu cầu này của A gây bất lợi cho B, có thể khiến B gánh chịu thêm một khoản thiệt hại nhất định so với yêu cầu ban đầu. Mặt khác do đã kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử, nên nếu yêu cầu của A được chấp nhận sẽ tạo ra cho B sự thụ động cũng như là không có thời gian thu thập tài liệu, chứng cứ bảo vệ cho mình; mặt khác quá trình tố tụng sẽ bị thay đổi bởi số tiền tạm ứng án phí không còn phù hợp; phiên họp kiểm tra việc tiếp cận giao nộp chứng cứ chưa toàn diện; phiên hòa giải chưa đầy đủ nội dung…
Từ ví dụ trên có thể thấy mặc dù yêu cầu của A chỉ làm tăng về giá trị không làm thay đổi hay phát sinh quan hệ pháp luật mới trong vụ án, nhưng việc chấp nhận yêu cầu này tại phiên tòa sơ thẩm sẽ kéo theo rất nhiều hệ lụy, hậu quả xấu và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của B. Chính vì vậy, không thể chấp nhận yêu cầu này của A.
Ngoài ra, qua 2 thời điểm chính nêu trên có thể thấy khoảng trống pháp lý khi pháp luật không ghi nhận việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập trong khoảng thời gian từ sau khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đến trước thời điểm mở phiên tòa. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong thời điểm này khi có yêu cầu về bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì sẽ “chờ” đến thời điểm mở phiên tòa để Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định tại Điều 244 BLTTDS. Thiết nghĩ, cần có hướng dẫn, quy định cụ thể trong trường hợp trên để việc áp dụng được thống nhất.
Trên đây là một số ý kiến của chúng tôi, rất mong nhận được sự quan tâm đóng góp ý kiến của quý bạn đọc.
Tòa án nhân dân huyện Trà Cú, Trà Vinh xét xử vụ án dân sự - Ảnh: Minh Quân
Bài liên quan
-
Quan hệ pháp luật tranh chấp giữa ông B và Công ty A phải căn cứ theo quy định tại khoản 5 Điều 30 BLTTDS 2015
-
Tòa bác một phần yêu cầu phản tố của Eximbank
-
Về kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự của cá nhân theo BLTTDS 2015
-
Án lệ số 44/2021/AL về việc xác định thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu phản tố
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Bác kháng cáo, tuyên án tử hình “Quân Idol”
-
Bất cập của quy định “đương nhiên được xóa án tích” theo Bộ luật Hình sự năm 2015
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
-
Cần truy tố và xét xử Nguyễn Văn B về tội “mua bán trái phép súng săn”
-
Hội thi “Tiếng hát người giữ rừng” tại Quảng Nam
Bình luận