Bàn về áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu

Xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu là một công cụ pháp lý hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính về lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng cấm. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng vẫn còn vướng mắc trong việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả, gây khó khăn cho công tác xử phạt vi phạm hành chính.

Đặt vấn đề

Trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật xử phạt vi phạm hành chính (XPVPHC) về lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả, các cơ quan, người có thẩm quyền XPVPHC đã chấp hành nghiêm nguyên tắc “Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời và phải bị xử lý nghiêm minh, mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp luật”1. Việc ra quyết định XPVPHC, áp dụng hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả đã được thực hiện đúng trình tự, thủ tục lập biên bản, xác minh, xem xét đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, đối tượng vi phạm, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, được sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025 (Luật XLVPHC), Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 17/2022/NĐ-CP, Nghị định số 24/2025/NĐ-CP (Nghị định số 98/2020/NĐ-CP) và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung “Tịch thu tang vật vi phạm hành chính” hay “Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường” đến nay vẫn có nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau trong thực tiễn.

1. Khái quát chung về hành vi vi phạm hành chính buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu

Theo từ điển Luật học, “hàng cấm” là hàng hóa bị Nhà nước cấm kinh doanh2. Theo Tài liệu tập huấn về hàng giả, hàng cấm của Tổng cục Quản lý thị trường, “hàng cấm” là hàng hóa mà Nhà nước cấm buôn bán, kinh doanh. Trong từng thời kỳ, căn cứ vào tình hình cụ thể mà Nhà nước quyết định công bố danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, buôn bán. Hiện nay, ở Việt Nam, Nhà nước cấm kinh doanh các mặt hàng: thuốc phiện và các hoạt chất của thuốc phiện; vũ khí và một số quân trang, quân dụng; hiện vật thuộc di tích lịch sử, văn hóa; các sản phẩm văn hóa đồi truỵ, phản động,…3. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, “hàng cấm” được định nghĩa là các loại hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa cấm lưu hành và hàng hóa cấm sử dụng tại Việt Nam. Thuốc lá điếu nhập lậu là sản phẩm được sản xuất từ toàn bộ hay một phần nguyên liệu thuốc lá và được chế biến dưới dạng thuốc điếu, xì gà, thuốc lá sợi dùng để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi có nguồn gốc sản xuất từ nước ngoài, không có đủ hoá đơn chứng từ4. Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu thì bị xử phạt về hành vi buôn bán hàng cấm theo quy định tại điểm điểm b các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, căn cứ vào số lượng bao thuốc lá điếu sẽ có các mức phạt khác nhau như: buôn bán số lượng dưới 50 bao bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng; từ 50 bao đến dưới 100 bao bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng; từ 100 bao đến dưới 300 bao bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng; từ 300 bao đến dưới 500 bao bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng; từ 500 bao đến dưới 1.000 bao bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; từ 1.000 bao đến dưới 1.200 bao bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng; từ 1.200 bao đến dưới 1.500 bao bị phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến 90.000.000 đồng. Riêng đối với trường hợp buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu có số lượng từ 1.500 bao trở lên nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị phạt tiền từ 90.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Đồng thời, còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như: (i) Tịch thu tang vật vi phạm, (ii) Tịch thu phương tiện là công cụ, máy móc được sử dụng để sản xuất hàng cấm, (iii) Tịch thu phương tiện vận tải được sử dụng để vận chuyển hàng cấm đối có số lượng 1000 bao trở lên; và các biện pháp khắc phục hậu quả: (i) Buộc tiêu hủy tang vật là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, (ii) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.

2. Vướng mắc trong việc áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu

Hình thức xử phạt chính, cũng như hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu đã được quy định cụ thể tại Điều 8 Nghị định số 98/NĐ-CP. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng còn thiếu quy định cụ thể về các trường hợp thuốc lá điếu nhập lậu bị tịch thu, trường hợp nào buộc tiêu hủy tang vật5 dẫn đến có những quan điểm khác nhau về áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật thuốc lá điếu nhập lậu để tiêu hủy theo quy định của pháp luật hay buộc tiêu hủy tang vật là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, gây khó khăn, vướng mắc cho công tác XPVPHC. Trên thực tế, tồn tại hai luồng quan điểm như sau:

Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, thuốc lá điếu nhập lậu là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường nên không áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật vi phạm hành chính mà áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy theo điểm a khoản 12 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP.

Luồng quan điểm thứ hai cho rằng, thuốc lá điếu nhập lậu không phải là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường mà là hàng cấm nên áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu theo điểm a khoản 11 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP để xử lý tiêu hủy theo quy định tại khoản 6 Điều 126 Luật XLVPHC và Quyết định số 2371/QĐ-TTg ngày 26/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện tiêu hủy thuốc lá nhập lậu bị tịch thu.

Nghiên cứu hai luồng quan điểm trên cho thấy, luồng quan điểm thứ hai đã bao quát và giải quyết vấn đề đảm bảo nguyên tắc “Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật”, “Áp dụng và thống nhất pháp luật”6, và nguyên tắc “Trong quá trình xử lý vi phạm hành chính, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”7 của Luật XLVPHC, bởi các lý do sau:

Một là, văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có định nghĩa, giải thích từ ngữ về hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, cũng như thuốc lá điếu nhập lậu là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường. Mặc dù, tại khoản 4 Điều 2 Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2018, 2023 (Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá) có định nghĩa, giải thích từ ngữ “Tác hại của thuốc lá là ảnh hưởng có hại của việc sản xuất, sử dụng thuốc lá gây ra cho sức khỏe con người, môi trường và sự phát triển kinh tế - xã hội”, tuy nhiên, về mặt ngữ nghĩa thì một bên là “gây hại”, một bên là “ảnh hưởng có hại” có nội hàm khác nhau, nên không thể đánh đồng thuốc lá điếu nhập lậu là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường. Trong khi đó, ngay chính trong điều luật chế tài XPVPHC về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu (Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP), Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 190, Điều 191) và các văn bản quy phạm pháp luật quản lý nhà nước về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện đã quy định chi tiết, cụ thể, xác định thuốc lá điếu nhập lậu là hàng cấm.

Hai là, việc xử lý tang vật theo quy định của Luật XLVPHC đã phân định rất rõ ràng giữa xử lý hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, và hàng cấm. Tại khoản 5 Điều 126 Luật XLVPHC quy định: “Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm độc hại thì phải tiến hành tiêu hủy theo quy định tại Điều 33 của Luật này”, nghĩa là nếu tang vật vi phạm hành chính có căn cứ xác định là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường thì phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường theo Điều 33 của Luật XLVPHC quy định: “Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không tự nguyện thực hiện thì bị cưỡng chế thực hiện”. Trong khi đó, tại khoản 6 Điều 126 Luật XLVPHC quy định: “Đối với các chất ma túy và những vật thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của Luật này”. Như vậy, nếu có căn cứ xác định tang vật vi phạm hành chính là hàng cấm thì phải tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của Luật XLVPHC. Không phải ngẫu nhiên mà nhà làm luật lại lựa chọn, sử dụng từ ngữ mang ngữ nghĩa pháp lý khác nhau giữa hai khoản trong cùng một điều luật là “tiêu hủy theo quy định tại Điều 33 của Luật này”tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của Luật này”, bởi vì hàng cấm không chỉ gây tác hại tổn thất đến hiệu quả kinh tế nội địa và chính sách khuyến khích đầu tư trong, ngoài nước, mà còn dẫn đến những hệ quả tiêu cực khôn lường đối với an toàn, trật tự và văn hóa xã hội8 nên cần phải quản lý chặt chẽ quy trình xử lý đối với hàng cấm dựa vào tính cất, đặt điểm riêng biệt mà không tùy tiện buộc tiêu hủy theo các phương pháp thông thường. Cũng vì lẽ đó, mà quy định của pháp luật luôn phân định rõ ràng giữa hai hình thức là tịch thu tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành, và biện pháp khắc phục hậu quả như tại khoản 2 Điều 65 Luật XLVPHC quy định về những trường hợp không ra quyết định XPVPHC: “Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó”; khoản 6 Điều 5 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 68/2025/NĐ-CP, Nghị định số 190/2025/NĐ-CP (Nghị định số 118/2021/NĐ-CP) quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính tại các nghị định quy định về XPVPHC trong các lĩnh vực quản lý nhà nước: “Trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là ma túy, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, vật có giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, bảo vật quốc gia, cổ vật, hàng lâm sản quý hiếm, vật thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành, thì phải quy định tịch thu”; khoản 5 Điều 26 Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá quy định về các biện pháp phòng, chống thuốc lá nhập lậu, thuốc lá giả: “Việc xử lý đối với thuốc lá nhập lậu được thực hiện theo quy định của Chính phủ”; khoản 1 Điều 32 Nghị định số 67/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá về kinh doanh thuốc lá, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 106/2017/NĐ-CP, Nghị định số 08/2018/NĐ-CP, Nghị định số 17/2020/NĐ-CP (Nghị định số 67/2013/NĐ-CP) quy định về phòng, chống buôn lậu, gian lận thương mại: “Thuốc lá giả, thuốc lá nhập lậu đều bị tịch thu để tiêu hủy, trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định”. Chính vì vậy, việc xử lý hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu cần phải áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật vi phạm để xử lý theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công được quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật XLVPHC, sau đó lập phương án tiêu hủy trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án và tổ chức tiêu hủy theo quy định về hình thức xử lý tài sản tiêu hủy, tổ chức thực hiện phương án xử lý tài sản tiêu hủy được phê duyệt tại điểm b khoản 6 Điều 8, khoản 7 Điều 13 Nghị định số 77/2025/NĐ-CP ngày 01/4/2025 của Chính phủ quy định thẩm quyền, thủ tục xác lập quyền sở hữu toàn dân về tài sản và xử lý đối với tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 125/2025/NĐ-CP, Nghị định số 127/2025/NĐ-CP, Nghị định số 286/2025/NĐ-CP (Nghị định số 77/2025/NĐ-CP).

Ba là, tương tự như tang vật vi phạm hành chính là pháo nổ, cũng được quy định trong Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP cùng với thuốc lá điếu nhập lậu nhưng cũng không thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy theo những phương pháp thông thường đối với tổ chức, các nhân vi phạm mà phải áp dụng văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng về quy trình, phương pháp tổ chức tiêu hủy theo khoản 2 Điều 6, Điều 7 Nghị định số 137/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 của Chính phủ quy định về quản lý, sử dụng pháo, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 56/2023/NĐ-CP, Nghị định số 138/2025/NĐ-CP (Nghị định số 137/2020/NĐ-CP). Đối với thuốc lá điếu nhập lậu, sau khi bị cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt tịch thu thì xử lý theo văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh riêng là Quyết định số 2371/QĐ-TTg ngày 26/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện tiêu hủy thuốc lá nhập lậu bị tịch thu (Quyết định số 2371/QĐ-TTg), có hiệu lực theo công văn số 5654/VPCP-V.I của Văn phòng Chính phủ ngày 10/7/2020 và Thông tư số 19/2015/TT-BTC ngày 03/02/2015 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về cơ chế huy động, quản lý, sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ công tác phòng, chống buôn lậu thuốc lá điếu và chống sản xuất, buôn bán thuốc lá giả, sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 306/2016/TT-BTC (Thông tư số 19/2015/TT-BTC). Theo đó, việc xử lý thuốc lá điếu nhập lậu phải tuân thủ theo quy trình, phương pháp tổ chức tiêu hủy quy định tại Điều 9 Thông tư số 19/2015/TT-BTC. Trong thực tế áp dụng Quyết định số 2371/QĐ-TTg, Thông tư số 19/2015/TT-BTC còn có quan điểm cho rằng các văn bản này chỉ áp dụng đối với những vụ việc vi phạm hành chính trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng (hay thường gọi là vụ việc vô chủ). Tuy nhiên, quan điểm này là chưa đúng, bởi vì điểm b khoản 2 Điều 3 Thông tư số 19/2015/TT-BTC quy định rất cụ thể Quyết định xử phạt tịch thu hoặc Quyết định tịch thu (trong trường hợp không xác định chủ sở hữu) là căn cứ của nguyên tắc thanh toán kinh phí hỗ trợ công tác phòng, chống buôn lậu thuốc lá điếu và chống sản xuất, buôn bán thuốc lá giả; đồng thời, bên cạnh việc xử lý tiêu hủy thuốc lá điếu nhập lậu bị tịch thu thì Quyết định số 2371/QĐ-TTg, Thông tư số 19/2015/TT-BTC còn quy định về cơ chế huy động, quản lý, sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ để nâng cao hiệu quả hơn nữa công tác phòng, chống buôn lậu thuốc lá điếu và chống sản xuất, buôn bán thuốc lá giả của các lực lượng chức năng. Nếu cho rằng Quyết định số 2371/QĐ-TTg, Thông tư số 19/2015/TT-BTC chỉ áp dụng đối với những vụ việc vi phạm hành chính trong trường hợp không xác định được người vi phạm, chủ sở hữu, người quản lý, người sử dụng thì sẽ đi ngược lại với tinh thần hỗ trợ các lực lượng chức năng phát huy tối đa nguồn lực để đấu tranh đấu tranh phòng, chống buôn lậu thuốc lá điếu, thuốc lá giả và vô hình trung không tuân thủ hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật vốn mang tính thống nhất của hệ thống pháp luật nhằm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước.

3. Kiến nghị hoàn thiện hướng dẫn về áp dụng hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu

Để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc và thống nhất quan điểm áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy đối với hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường đối với tang vật vi phạm hành chính là thuốc lá điếu nhập lậu trong thực tiễn. Cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, ban hành một văn bản hướng dẫn áp dụng theo hướng quy định: “Đối với tang vật là thuốc lá điếu nhập lậu vi phạm quy định tại Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 17/2022/NĐ-CP, Nghị định số 24/2025/NĐ-CP áp dụng hình thức xử phạt tịch thu và tiêu hủy theo quy định của pháp luật chuyên ngành và pháp luật khác có liên quan”. Hoặc sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 12 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP theo hướng như sau:

“12. Biện pháp khắc phục hậu quả:

a) Buộc tiêu hủy tang vật đối với hàng cấm khi có căn cứ xác định là hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này; trừ trường hợp áp dụng hình thức xử phạt tịch thu và tiêu hủy theo quy định của pháp luật chuyên ngành và pháp luật khác có liên quan”.

Nghiên cứu cho thấy, việc ban hành một văn bản hướng dẫn hoặc sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 12 Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP như đã nêu trên sẽ giúp cho cơ quan, người có thẩm quyền XPVPHC có thể áp dụng theo đúng tinh thần của pháp luật về XPVPHC và chủ trương của nhà nước về quản lý công tác đấu tranh phòng, chống buôn lậu thuốc lá điếu. Đồng thời, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong tổ chức thi hành pháp luật của người có thẩm quyền XPVPHC.

Kết luận

Trên cơ sở phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu tang vật vi phạm hành chính và biện pháp khắc phục hậu quả buộc tiêu hủy đối với hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, nghiên cứu đề xuất khuyến nghị để hoàn thiện pháp luật. Trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan, người có thẩm quyền XPVPHC áp dụng thống nhất, đồng bộ, bảo đảm nâng cao hiệu quả thi hành trên thực tế.

 

ThS. PHẠM MINH HẢI (Phòng Nghiệp vụ Ban Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Đồng Nai)

1 Điểm a khoản 1 Điều 3 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025).

2 Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, 2006, tr.319.

3 Tổng Cục Quản lý thị trường - Bộ Công thương, Tài liệu tập huấn về hàng giả, hàng cấm, Tài liệu lưu hành nội bộ, 2019, tr.6.

4 Khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 36/2012/TTLT-BCT-BCA-BTP-BYT-TANDTC-VKSNDTC.

5 Huỳnh Văn Trung, Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, https://lapphap.vn/Pages/TinTuc/210777/Hoan-thien-cac-quy-dinh-cua-phap-luat-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-doi-voi-hanh-vi-buon-ban-hang-cam-la-thuoc-la-dieu-nhap-lau.html, truy cập ngày 01/11/2025.

6 Cổng thông tin điện tử Quốc hội, Bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật,  https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=78567, truy cập ngày 01/11/2025.

7 Khoản 1 Điều 16 Luật XLVPHC năm 2012, sửa đổi, bổ sung năm 2020, 2025.

8 Đặng Văn Thái (2022), Hoàn thiện các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi buôn bán hàng cấm, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử, theo trang: https://lapphap.vn/Pages/TinTuc/211442/Hoan-thien-cac-quy-dinh-cua-phap-luat-ve-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-doi-voi-hanh-vi-buon-ban-hang-cam.html, truy cập ngày 01/11/2025.

Lực lượng Công an kiểm đếm số thuốc lá lậu - Ảnh: Phòng CSKT Công an tỉnh Thừa Thiên Huế.