Các chủ tàu, thuyền trưởng có phạm tội không?

Các chủ tàu, thuyền trưởng có phạm tội không? Hiện đang còn nhiều quan điểm khác nhau.

A và B chung tiền mua tàu để làm dịch vụ hậu cần trên biển, thuê C phụ giúp việc làm ăn. Quá trình hoạt động trên biển, nhận thấy nhiều tàu cá có nhu cầu gửi thiết bị giám sát hành trình (TBGSHT) tàu cá nên A và B bàn bạc với nhau, thống nhất nhận giữ TBGSHT của các tàu cá khác với giá 10 triệu đồng/thiết bị/01 tháng. A và B giao cho C điều khiển tàu đi đến các điểm hẹn với các chủ tàu, thuyền trưởng tàu khác để nhận TBGSHT; đồng thời, C thực hiện việc ghi chép danh sách các tàu cá gửi TBGSHT báo cho A và B để làm căn cứ tính tiền với các chủ tàu, thuyền trưởng gửi thiết bị.

Trong tháng 3, 4/2024, C nhận 15 TBGSHT của các tàu cá khác, nguồn gốc số thiết bị này được cơ quan chức năng lắp đặt trên 15 tàu cá của các ngư dân khi thực hiện đánh bắt thủy sản. Người gửi ít nhất là 01 thiết bị, nhiều nhất là 04 thiết bị; mục đích các chủ tàu, thuyền trưởng gửi TBGSHT cho nhóm A, B, C là để đưa tàu đi đánh bắt thủy sản trên biển mà không chịu sự giám sát của cơ quan chức năng.

Các bị can A, B, C bị khởi tố, truy tố về tội “Cản trở hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử” theo Điều 287 Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS). Các cá nhân là chủ tàu, thuyền trưởng gửi TBGSHT cho nhóm các bị can đã bị cơ quan chức năng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Quá trình giải quyết vụ án, việc xác định hành vi của chủ tàu, thuyền trưởng 15 tàu cá đã gửi TBGSHT cho nhóm các bị cáo A, B, C còn có những quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất: Hành vi của các chủ tàu, thuyền trưởng 15 tàu cá đã gửi TBGSHT cấu thành "Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" theo khoản 1 Điều 287 BLHS. Vì xác định các chủ tàu, thuyền trưởng là đồng phạm với các bị can A, B, C.

Quan điểm thứ hai: Chỉ các chủ tàu, thuyền trưởng tàu cá gửi 02 TBGSHT trở lên mới cấu thành tội "Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử" theo khoản 1 Điều 287 BLHS; đối với các trường hợp gửi 01 thiết bị thì không phạm tội mà chỉ vi phạm hành chính. Vì, theo khoản 1 Điều 8 Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP ngày 12/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi liên quan đến khai thác, mua bán, vận chuyển trái phép thủy sản (Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP) thì các chủ tàu, thuyền trưởng có hành vi tháo gỡ 02 TBGSHT của tàu cá, gây rối loạn, cản trở khả năng quản lý, giám sát điều hành của cơ quan có thẩm quyền nhằm mục đích khai thác thủy sản trái phép và hành vi tháo TBGSHT đã làm cho việc truyền tải thông tin của TBGSHT về trung tâm dữ liệu giám sát hành trình tàu cá không đúng vị trí tàu cá đang hoạt động.

  Quan điểm thứ ba (cũng là quan điểm của tác giả): Hành vi của các chủ tàu, thuyền trưởng 15 tàu cá đã gửi TBGSHT không cấu thành tội phạm, đây là hành vi vi phạm hành chính theo Nghị định số 42/2019/NĐ-CP ngày 16/5/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, cơ quan chức năng đã xử phạt hành chính là phù hợp, không cần xem xét lại. Bởi các lý do sau:

Thứ nhất, về quy định của pháp luật: Theo khoản 1 Điều 287 BLHS quy định: “1. Người nào tự ý xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có hành vi khác cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thuộc một trong các trường hợp sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 286 và Điều 289 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: a) Thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; b) Gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng; c) Làm tê liệt, gián đoạn, ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử từ 30 phút đến dưới 24 giờ hoặc từ 03 lần đến dưới 10 lần trong thời gian 24 giờ; d) Làm đình trệ hoạt động của cơ quan, tổ chức từ 24 giờ đến dưới 72 giờ; đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Theo hướng dẫn tại Điều 8 Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP thì: “Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây cản trở hoặc rối loạn khả năng quản lý, giám sát, điều hành của cơ quan có thẩm quyền nhằm khai thác thủy sản trái phép thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử quy định tại Điều 287 của Bộ luật Hình sự, nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. 1. Tháo gỡ, tàng trữ, vận chuyển từ 02 thiết bị giám sát hành trình của tàu cá khác trở lên. 2. Xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu hoặc gây rối loạn hoạt động của thiết bị giám sát hành trình tàu cá”.

Như vậy, theo hướng dẫn thì hành vi của các chủ tàu và thuyền trưởng có phạm tội hay không phải thỏa mãn các yếu tố sau:

Một là, các chủ tàu và thuyền trưởng phải thực hiện một trong hai hành vi: “Tháo gỡ, tàng trữ, vận chuyển từ 02 thiết bị giám sát hành trình của tàu cá khác trở lên hoặc xóa, làm tổn hại hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ liệu hoặc gây rối loạn hoạt động của thiết bị giám sát hành trình tàu cá”.

Hai là, các chủ tàu và thuyển trưởng thực hiện một trong hai hành vi trên nhằm khai thác thủy sản trái phép.

Theo điểm i khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 04/2024/NQ-HĐTP thì khai thác thủy sản trái phép là không trang bị hoặc trang bị không đầy đủ hoặc không vận hành thiết bị thông tin liên lạc và thiết bị giám sát hành trình theo quy định”.

Thứ hai, trở lại tình huống của vụ án thì việc các chủ tàu và thuyền trưởng chỉ thực hiện hành vi tháo gỡ TBGSHT trên tàu cá của mình (từ 01 đến 04 thiết bị) và không thực hiện tháo gỡ thiết bị của tàu cá khác. Hành vi tháo gỡ thiết bị của các chủ tàu và thuyền trưởng đã gây cản trở hoạt động quản lý, theo dõi của cơ quan chức năng nhưng với dữ kiện trong vụ án thì chưa đủ căn cứ chứng minh: Các chủ tàu cá và thuyền trưởng thu lợi bất chính là bao nhiêu tiền, do không xác định được số lượng khai thác thủy sản của các chủ tàu và thuyền trong khoảng thời gian tháo thiết bị; gây thiệt hại cụ thể bao nhiêu tiền; hay việc xác đinh làm tê liệt, gián đoạn ngưng trệ hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử cụ thể bao nhiêu giờ… trong khi đó các chủ tàu, thuyền trưởng chưa bị xử lý hành chính lần nào.

Từ những lập luận trên tác giả cho rằng, chưa đủ cơ sở để xác định các chủ tàu và thuyền trưởng phạm tội mà chỉ xử lý hành chính đối với các chủ tàu, thuyền trưởng theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Nghị định số 42/2019/NĐ-CP (vì thời điểm xảy ra hành vi vi phạm vào tháng 3, 4/2024 nên phải vận dụng tinh thần tại điểm b khoản 5 Điều 35 Nghị định số 38/2024/NĐ-CP ngày 05/4/2024 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản, có hiệu lực từ ngày 20/5/2024) phạt tiền các chủ tàu và thuyền trưởng từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi tháo thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá mà không có sự giám sát của đơn vị cung cấp, lắp đặt thiết bị.

NGÔ ANH DŨNG (TAQS khu vực Thủ đô Hà Nội)

Một phiên tòa do TAQS TƯ xét xử - Ảnh: PV.