Chỉ cho người khác trộm cắp tài sản là phạm tội

Sau khi nghiên cứu bài viết “Chỉ cho người khác trộm cắp tài sản có phạm tội không ?”, bài của tác giả Võ Văn Như đăng ngày 23 /11/ 2020, tôi cho rằng chỉ cho người khác trộm cắp tài sản là phạm tội.

Trên cơ sở nội dung vụ án mà tác giả đã nêu và các quan điểm xung quanh việc xác định ở lần Cường chỉ cho Tài chiếm đoạt tài sản, giá trị là 2.233.000 đồng, vậy Cường có phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi này hay không? Và nếu Cường phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm với Tài thì Cường có phải chịu tình tiết định khung là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp hay không?

Đối với cả hai vấn đề trên, tôi có quan điểm đồng tình một phần quan điểm thứ hai và một phần quan điểm của tác giả cùng với một số nhận định mà tác giả đã phân tích ở quan điểm thứ 3 đó là: Do Cường là người khởi xướng cho Tài để chiếm đoạt tài sản, giá trị trên 02 triệu đồng nên Cường phải chịu trách nhiệm với vai trò đồng phạm mà cụ thể ở đây Cường được xác định là vai trò người giúp sức trong vụ án đồng phạm. Với những phân tích lập luận mà tác giả đã nêu, tôi xin được phản biện đối với quan điểm thứ nhất khi nhận định cho rằng: “Cường chỉ cho Tài căn nhà để Tài đi chiếm đoạt tài sản, là không có lợi ích gì từ việc chỉ nơi chiếm đoạt tài sản cho Tài, Tài quyết định đi chiếm đoạt tài sản do Tài tự quyết định, nên Tài phải chịu trách nhiệm hình sự riêng đối với lần này. Do đó, Cường chỉ ba lần chiếm đoạt tài sản, chưa đủ điều kiện xác định phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” đối với nhận định này theo tôi là không phù hợp với các quy định của pháp luật, bởi lý do sau:

Thứ nhất, về lý luận xét ở hai mặt khách quan và chủ quan của đồng phạm, cho chúng ta thấy: Ở mặt khách quan: Một là, về số lượng có từ 02 người trở lên và người đó đủ điều kiện chủ thể tham gia tội phạm; Hai là, những người đồng phạm cùng thực hiện một tội phạm. Ở mặt chủ quan xét ở yếu tố lỗi thì: Một là, về lý trí: Trong nhận thức của những người đồng phạm đều phải biết hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ cũng phải biết rằng người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội cùng với mình. Mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ tham gia thực hiện. Hai là, về ý chí: Những người đồng phạm mong muốn có hoạt động chung và cùng mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 BLHS năm 1999 và khoản 1 Điều 17 BLHS năm 2015: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.

Trở lại vụ án cho ta thấy: Vào  ngày 25 /6 /2020, mặc dù, Cường không đi chiếm đoạt tài sản, nhưng Cường chỉ cho Tài nhà của ông Trần Văn Tân, tại số 74, đường Lê Duẩn, khóm 4, phường 3, tp Sóc Trăng, để Tài lén lút lấy 02 cái ghế tựa lựng có khung bằng sắt; 01 cái ghế bọc da màu cam không có tựa lưng; 01 cái ghế ngồi tựa lưng được bọc da màu nâu đen; 01 chân bàn bằng kim loại, màu trắng; 01 mặt bàn bằng kính; 01 bóng đèn Led hình tròn hiệu Rạng Đông; 01 đoạn giây điện có chiều dài 30m; 12 chân bàn bằng kim loại. Tổng giá trị tài sản mà Tài chiếm đoạt là 2.233.000 đồng; Tài bán tài sản chiếm đoạt và tiêu xài cá nhân hết nhưng không chia cho Cường.

Mặc dù, Cường không được hưởng lợi gì từ việc chỉ điểm cho Tài trộm cắp tài sản nhưng về mặt hành vi ta thấy Cường đã có vai trò là người khởi xướng cho việc Tài thực hiện hành vi trộm cắp tài sản có vai trò giúp sức, thúc đẩy việc thực hiện hành vi của Tài. Về lý trí Cường hoàn toàn biết việc thực hiện hành vi của Tài khi được chỉ điểm sẽ gây nguy hiểm cho xã hội mà cụ thể sẽ gây thiệt hại cho bị hại có tài sản. Và việc thực hiện hành vi của Tài đối với lần mà Cường chỉ điểm đủ cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản. Do vậy, cùng với việc Tài phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản này thì Cường vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò là đồng phạm. Không thể chỉ vì Cường không nhận được lợi ích vật chất vì không được Tài chia mà nhận định cho rằng Cường không phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của Tài. Do đây không phải là dấu hiệu bắt buộc trong đánh giá vai trò đồng phạm trong vụ án, mà trong lần chỉ điểm cho Tài trộm cắp tài sản, Cường vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Do vậy, đủ cơ sở xác định ngoài lần trộm cắp tài sản Cường đã bị kết án thì Cường đã 4 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và mỗi lần đủ yếu tố cấu thành tội phạm, trong đó có 3 lần trực tiếp thực hiện hành vi và 1 lần xúi giục, thúc đẩy Tài thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Vì vậy, có cơ sở để xem xét, đánh giá và áp dụng tình tiết định khung tăng nặng đối với Cường đó là “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

Thứ hai, đối với với nhận định ở quan điểm thứ hai đó là: Cường từng bị kết án về tội ‘‘Trộm cắp tài sản’’, sau khi chấp hành xong hình phạt, không có nghề nghiệp, trong một thời gian, bị cáo lại tiếp tục thực hiện 4 lần chiếm đoạt tài sản, chuyên sống bằng nguồn thu nhập từ việc phạm tội, nên Cường phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc tình tiết định khung“có tính chất chuyên nghiệp” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 173 của BLHS năm 2015. Và nhận định của tác giả ở quan điểm thứ ba đó là: đối với lần Cường chỉ cho Tài trộm cắp tài sản, do Cường không được hưởng lợi gì từ việc Tài chiếm đoạt tài sản, Tài tự bán tài sản và tiêu xài cá nhân riêng. Cường chỉ bán lấy tiền tiêu xài cá nhân đối với ba lần trước đó, chưa thỏa mãn điều kiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 5.2 Nghị quyết số 01/2006/HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp”. Các nhận định này theo tôi là chưa hợp lý mà tùy từng trường hợp cụ thể Cường có thể phải chịu hoặc không phải chịu tình tiết “có tính chất chuyên nghiệp”. Với lý do sau:

Đúng như nhận định của tác giả, đối với Cường đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”,  do đã xác định là tái phạm, chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, nên bị cáo phạm tội trộm cắp tài sản, thuộc tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”. Đối với việc Cường chỉ cho Tài căn nhà để Tài đi chiếm đoạt tài sản, mặc dù, Cường không có lợi ích gì từ việc chỉ nơi chiếm đoạt tài sản cho Tài, việc Tài quyết định đi chiếm đoạt tài sản do Tài tự quyết định, nên cả Tài và Cường đều phải chịu trách nhiệm hình sự đối với lần phạm tội này. Ở đây, Tài với vai trò là người thực hành, còn Cường với vai trò là người giúp sức trong vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn. Căn cứ theo quy định tại Điều 17 BLHS năm 2015.

Mặc dù, ở lần phạm tội của Tài, Cường tham gia với vai trò là người giúp sức. Tuy nhiên, việc có xác định Cường phạm tội với ngoài tình tiết định khung là “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” không? Trong vụ án cụ thể mà tác giả nêu theo tôi phải chia ra 2 trường hợp cụ thể sau:

Trường hợp thứ nhất, vận dụng tinh thần tại mục 5.1 Nghị quyết số 01/2006/HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC  có hướng dẫn “5.1. Chỉ áp dụng tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: a. Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; b. Người phạm tội đều lấy các phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính”. Do đó, việc Cường đã từng bị kết án về tội: “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới với số lần là 04 lần, đều đủ cấu thành cơ bản của tội trộm cắp tài sản. Mặc dù trong đó có 01 lần chỉ điểm cho Tài trộm cắp tài sản, lần này dù Cường không được hưởng lợi ích vật chất gì thì Cường vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò là người giúp sức trong vụ án đồng phạm. Vì lẽ đó, nếu trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử làm rõ được việc Cường không có nghề nghiệp, không có thu nhập gì ngoài việc lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính thì phải áp dụng tình tiết định khung đối với Cường là “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”.

Trường hợp thứ hai, nếu quá trình điều tra, truy tố, xét xử chứng minh được rằng ngoài việc phạm tội Cường vẫn có nghề nghiệp thu nhập nuôi sống bản thân được, chứ không phải lấy việc phạm tội là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính thì Cường sẽ không bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng là “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” mà trong trường hợp này chỉ áp dụng 01 tình tiết định khung đó là “tái phạm nguy hiểm” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS. Riêng đối với tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Cường phải chịu theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.

Trên  đây là quan điểm cá nhân của tôi  đối với bài viết“Chỉ cho người khác trộm cắp tài sản có phạm tội không?”, xin được trao đổi với tác giả bài viết cùng quý bạn đọc và đồng nghiệp./.

 

Tòa án tỉnh Kon Tum xét xử phúc thẩm vụ án Trộm cắp tài sản - Ảnh: Tấn Thành

 

Ths ĐỖ NGỌC BÌNH (Tòa án quân sự Thủ đô Hà Nội)