Một số vấn đề pháp lý về thị trường giao dịch tín chỉ các-bon tự nguyện tại Việt Nam

Bài viết phân tích thực trạng pháp lý hiện hành và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện khung pháp lý, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức tham gia giao dịch tín chỉ các-bon và đóng góp vào mục tiêu bảo vệ môi trường toàn cầu.

Đặt vấn đề

Biến đổi khí hậu buộc các quốc gia, trong đó có Việt Nam, phải cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Theo đó, Việt Nam dự kiến thí điểm thị trường giao dịch tín chỉ các-bon vào năm 2025 và vận hành chính thức vào năm 2028, tuy nhiên khung pháp lý hiện vẫn chưa hoàn thiện. Điều này có thể tạo ra những trở ngại lớn cho cá nhân và tổ chức tham gia thị trường, đặc biệt khi Việt Nam đang bước vào giai đoạn thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon theo đúng lộ trình đã đề ra. Bài viết đề xuất các giải pháp pháp lý dựa trên kinh nghiệm quốc tế nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, bảo đảm vận hành hiệu quả thị trường tín chỉ các-bon, góp phần vào mục tiêu giảm phát thải toàn cầu.

1. Pháp luật Việt Nam hiện hành về giao dịch tín chỉ các-bon

Hiện nay trên thế giới tồn tại hai loại thị trường các-bon bao gồm thị trường bắt buộc và thị trường tự nguyện. Thị trường bắt buộc hoạt động trên cơ sở Chính phủ phân phối hoặc bán một số lượng hạn chế các tín chỉ hoặc giấy phép phát thải các-bon cố định (thường là 1 tấn CO2) trong một khoảng thời gian. Các doanh nghiệp chỉ được phép phát thải một lượng tương đương với số lượng tín chỉ hoặc giấy phép mà họ sở hữu. Nếu muốn tăng lượng phát thải, các doanh nghiệp phải mua thêm tín chỉ từ các bên có lượng phát thải dư thừa nên hàng hóa của thị trường này là hạn ngạch phát thải. Trong khi đó, thị trường tự nguyện dành cho các chủ thể không bị áp đặt hạn mức phát thải nhưng có nhu cầu mua tín chỉ các-bon nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường quốc tế nên hàng hóa của thị trường này là tín chỉ các-bon[1]. Các tín chỉ các-bon được tạo ra từ các dự án mà trong đó có sự giảm hoặc loại bỏ thực sự khí nhà kính[2]. Vì vậy thị trường các-bon được cho là công cụ kinh tế hữu hiệu trong việc cắt giảm lượng khí nhà kính phát thải ra môi trường.

Nhằm thực hiện các nghĩa vụ quốc tế theo Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1775/QĐ-TTg ngày 21/11/2012, phê duyệt Đề án quản lý phát thải khí nhà kính và hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế giới. Mặc dù đây là lần đầu tiên tín chỉ các-bon được đề cập trong văn bản pháp luật tại Việt Nam, văn bản này vẫn chưa đưa ra định nghĩa cụ thể về tín chỉ các-bon.

Bước tiến đáng chú ý trong việc hình thành cơ sở pháp lý cho thị trường các-bon tại Việt Nam được ghi nhận tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Tại khoản 35 Điều 3, Luật này lần đầu tiên đưa ra định nghĩa chính thức về tín chỉ các-bon, xác định đây là một loại chứng nhận có thể giao dịch thương mại, thể hiện quyền phát thải một tấn CO2 hoặc một lượng khí nhà kính khác tương đương. Đồng thời, luật cũng khẳng định bản chất hàng hóa của tín chỉ các-bon thông qua việc cho phép giao dịch loại tài sản này.

Tiếp theo đó, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 của Chính phủ quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn được ban hành nhằm hướng dẫn chi tiết tổ chức và phát triển thị trường các-bon trong nước. Theo quy định tại khoản 1 Điều 139 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Việt Nam có hai hình thức mua bán phát thải bao gồm mua bán hạn ngạch phát thải và mua bán tín chỉ các-bon được tạo ra từ các dự án các-bon. Thị trường các-bon vừa bao gồm các giao dịch trao đổi tín chỉ các-bon tự nguyện, vừa cho phép các chủ thể bị áp đặt hạn mức phát thải được quyền giao dịch tín chỉ các-bon khi có nhu cầu phát thải vượt quá hạn mức, điều này đã được khẳng định tại khoản 5 Điều 3 Nghị định số 06/2022/NĐ-CP. Trong khi đó, tại các nước thuộc Liên minh châu Âu, các chủ thể nằm trong danh sách bị áp đặt hạn mức phát thải sẽ không được quyền tham gia mua bán tín chỉ các-bon từ thị trường các-bon tự nguyện mà chỉ có hai sự lựa chọn là mua thêm hạn ngạch phát thải đắt đỏ từ nhà nước hoặc đổi mới công nghệ sản xuất để bảo đảm việc tuân thủ mục tiêu giảm phát thải lượng khí nhà kính.

Đáng chú ý, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đã đưa ra định nghĩa cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon, làm rõ quy trình tạo lập loại hàng hóa này. Theo đó, các tín chỉ các-bon chỉ được hình thành thông qua quá trình đăng ký và triển khai các chương trình, dự án giảm phát thải khí nhà kính, phù hợp với các phương pháp đã được quốc tế hoặc Việt Nam công nhận. Quá trình này bao gồm việc giám sát, đo đạc lượng phát thải được giảm thiểu bởi một bên thứ ba độc lập và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định trước khi cấp phát tín chỉ. Mỗi tín chỉ các-bon tương đương với một tấn CO2 và có thể được giao dịch trên sàn giao dịch theo cơ chế tập trung.

Mặc dù đã có quy định về việc thương mại hóa tín chỉ các-bon và kế hoạch vận hành thí điểm sàn giao dịch tín chỉ các-bon vào năm 2025, nhưng đến nay, khung pháp lý điều chỉnh loại hàng hóa này vẫn còn nhiều khoảng trống. Các vấn đề bao gồm việc phân loại tài sản cho hàng hoá này cho đến vấn đề về thu thuế sau khi tín chỉ các-bon được chuyển nhượng vẫn chưa được cụ thể hóa. Điều này có thể gây ra những rào cản đáng kể cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia thị trường, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn triển khai thử nghiệm sàn giao dịch tín chỉ các-bon theo đúng lộ trình đã định.

2. Các vấn đề pháp lý về giao dịch tín chỉ các-bon tự nguyện tại Việt Nam cần hoàn thiện

2.1. Xác định bản chất pháp lý cho tín chỉ các-bon

Để có thể đưa tín chỉ các-bon vào giao dịch, cần phải công nhận và xác định tín chỉ các-bon là một loại tài sản. Khi công nhận tín chỉ các-bon là tài sản, cơ quan nhà nước có thể tiến hành thu thuế, thi hành án, định tội danh đối với các hành vi liên quan đến tín chỉ các-bon.

Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS), tài sản bao gồm bốn loại là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy, để tín chỉ các-bon được xem là tài sản thì cần công nhận tín chỉ các-bon thuộc một trong bốn loại tài sản được quy định tại BLDS hiện hành.

Thứ nhất, xét dưới góc độ là “vật”, tín chỉ các-bon không đáp ứng điều kiện về tính hữu hình. Theo BLDS, “vật” có thể nhận biết được bằng giác quan, tồn tại dưới dạng vật chất và có thể bị chiếm hữu mà không bao gồm cả vật vô hình như quyền tài sản theo như pháp luật các quốc gia khác[3]. Trong khi đó, tín chỉ các-bon là giấy phép chứng nhận quyền phát thải khí nhà kính, mang tính đại diện cho một quyền vô hình, không tự thân tạo ra hay làm mất đi quyền phát thải của chủ thể. Việc chiếm hữu tín chỉ các-bon không đồng nghĩa với khả năng khai thác công dụng của nó nếu không đi kèm quyền sở hữu hợp pháp. Tương tự như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ xác nhận quyền đã có mà không tự tạo ra quyền đó, tín chỉ các-bon về bản chất là công cụ chứng nhận, không phải vật hữu hình có thể sử dụng trực tiếp. Do đó, tín chỉ các-bon không thể được xem là “vật” theo định nghĩa tài sản của BLDS.

Thứ hai, tín chỉ các-bon không được xem là tiền phải do Ngân hàng Nhà nước phát hành, được Nhà nước bảo hộ dùng để định giá các loại tài sản khác[4].

Thứ ba, Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ liệt kê “giấy tờ có giá” là một loại tài sản nhưng không định nghĩa khái niệm này. Theo khoản 1 Điều 2 Thông tư 01/2012/TT-NHNN, giấy tờ có giá được hiểu là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành và người sở hữu trong thời hạn xác định, kèm theo điều kiện trả lãi và điều kiện khác. Trước đây, khoản 1 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm (đã hết hiệu lực) từng liệt kê cụ thể các loại giấy tờ có giá như cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, séc,... Tuy nhiên, Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã không tiếp tục quy định khái niệm hay liệt kê cụ thể các giấy tờ này. Nếu đối chiếu với định nghĩa tại Thông tư số 01/2012/TT-NHNN ngày 16/02/2012 của Ngân hàng nhà nước quy định về việc chiết khấu giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì tín chỉ các-bon không đáp ứng các tiêu chí để được xem là giấy tờ có giá, vì không mang nội dung xác lập nghĩa vụ trả nợ hoặc trả lãi giữa chủ thể phát hành và chủ thể sở hữu. Do đó, tín chỉ các-bon khó có thể được xếp vào nhóm “giấy tờ có giá” theo hệ thống pháp luật hiện hành.

Như vậy, trong bốn loại tài sản theo quy định của BLDS hiện hành, tín chỉ các-bon chỉ còn khả năng được xếp vào nhóm quyền tài sản. Tuy nhiên, quan điểm về việc công nhận tín chỉ các-bon là quyền tài sản vẫn còn gây tranh cãi. Một số nhà môi trường học tại Hoa Kỳ phản đối quan điểm này, cho rằng không chủ thể nào có quyền phát thải, và việc thừa nhận tín chỉ các-bon là quyền tài sản sẽ hợp pháp hóa hành vi phát thải thông qua công cụ pháp lý[5]. Trái lại, pháp luật Pháp đã công nhận hạn ngạch phát thải và chứng chỉ tiết kiệm năng lượng là động sản có thể chuyển nhượng, nhưng chưa mở rộng điều này đối với tín chỉ các-bon tự nguyện. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia thuộc hệ thống dân luật vẫn chưa xác định rõ bản chất pháp lý của tín chỉ các-bon tự nguyện. Hệ quả là sự thiếu vắng quy định điều chỉnh và cơ chế giám sát, dẫn đến nguy cơ lạm dụng tín chỉ các-bon trong các hành vi như lừa đảo, rửa tiền hoặc trốn thuế chuyển nhượng tín chỉ các-bon[6]. Đồng thời, việc không phân loại tài sản cho tín chỉ các-bon còn làm suy giảm khả năng khai thác giá trị của loại hàng hóa này trong giao dịch bảo đảm[7].

Việc phân loại và xác định bản chất pháp lý của tín chỉ các-bon là rất quan trọng trong quản lý giao dịch và bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Trước khi cho phép giao dịch tín chỉ các-bon, cần phải công nhận tín chỉ này là tài sản. Theo khung pháp lý Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, tín chỉ các-bon có thể được xếp vào nhóm quyền tài sản, bởi vì nó cho phép chủ sở hữu phát thải một lượng khí CO2 tương đương. Mặc dù một số quốc gia không thừa nhận tín chỉ các-bon như quyền tài sản vì lo ngại làm gia tăng phát thải, nhưng đối với các chủ thể tự nguyện cắt giảm phát thải, bản thân các chủ thể này đã có ý thức giảm lượng phát thải cho các hoạt động vận hành của mình nên việc cấp cho họ quyền phát thải sẽ không dẫn đến hiện tượng mua tín chỉ để gây ô nhiễm. Còn đối với các chủ thể bị kiểm soát hạn ngạch phát thải thì Nghị định số 06/2022/NĐ-CP đã đặt ra hạn mức không được mua thêm quá “10% tổng số hạn ngạch phát thải khí nhà kính được phân bổ” để tạo áp lực thực hiện nghĩa vụ cắt giảm khí nhà kính cũng như định hướng hành vi ứng xử của các chủ thể này với môi trường[8].

2.2. Các loại thuế phát sinh khi giao dịch tín chỉ các-bon tự nguyện

Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với giao dịch tín chỉ các-bon có thể khác nhau tùy theo quy định của từng quốc gia. Một số quốc gia miễn hoặc giảm thuế GTGT đối với tín chỉ các-bon. Đối với thuế TNDN, lợi nhuận từ chuyển nhượng tín chỉ các-bon có thể bị đánh thuế nếu giao dịch này là hoạt động kinh doanh chính của công ty, mặc dù một số quốc gia cung cấp ưu đãi thuế để khuyến khích bảo vệ môi trường. Như vậy, các quốc gia trên thế giới có xu hướng áp dụng thuế TNDN và thuế GTGT đối với giao dịch tín chỉ các-bon. Tham khảo từ cách thức quy định nghĩa vụ thuế đối với giao dịch tín chỉ các-bon của các quốc gia, có thể xem xét chính sách thuế Việt Nam áp dụng đối với giao dịch này như sau:

Thứ nhất, về thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo pháp luật Việt Nam, thu nhập từ chuyển nhượng chứng chỉ giảm phát thải (CERs) của doanh nghiệp được cấp chứng chỉ giảm phát thải hiện được miễn thuế theo khoản 8 Điều 4 của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi đó, Pháp, Ba Lan, Bỉ và Đức đã áp dụng thuế GTGT đối với các giao dịch tín chỉ các-bon còn New Zealand xác định lợi nhuận từ việc giao dịch tín chỉ các-bon được xem là phần thu nhập chịu thuế[9]. Tuy nhiên, để quyết định có nên đánh thuế thu nhập từ chuyển nhượng tín chỉ các-bon hay không, cần xem xét mục đích của việc tạo ra tín chỉ này, vốn là kết quả của những nỗ lực giảm phát thải từ các dự án bảo vệ môi trường. Vì vậy, việc các doanh nghiệp đầu tư chi phí và thời gian để tạo ra tín chỉ các-bon nên được khuyến khích bằng các công cụ ưu đãi thuế.

Thứ hai, về thuế GTGT, theo quy định của Liên minh châu Âu, giao dịch hạn ngạch phát thải được xem là cung cấp dịch vụ và phải chịu thuế GTGT. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam, thuế GTGT chỉ áp dụng đối với hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên, tín chỉ các-bon không phải là dịch vụ. Về việc tín chỉ các-bon có được xem là hàng hóa hay không, Điều 3 Luật Thương mại 2005 định nghĩa hàng hóa là “tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và những vật gắn liền với đất đai”. Do tín chỉ các-bon không đáp ứng định nghĩa này, tác giả cho rằng tín chỉ các-bon không phải là hàng hóa và do đó không phải chịu thuế GTGT.

2.3. Chủ thể tham gia thị trường các-bon tự nguyện

Theo Điều 16 Nghị định số 06/2022/NĐ-CP, các đối tượng tham gia thị trường các-bon trong nước bao gồm các cơ sở bị áp đặt hạn mức phát thải, các tổ chức tham gia thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon và các tổ chức/cá nhân liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh hạn ngạch phát thải, tín chỉ các-bon. Quy định pháp luật Việt Nam về các chủ thể tham gia thị trường các-bon tự nguyện linh hoạt hơn Liên minh châu Âu, khi cho phép các doanh nghiệp bị áp đặt hạn mức tham gia thị trường tự nguyện với điều kiện giới hạn mua thêm không quá 10% hạn ngạch phân bổ. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình cắt giảm lượng phát thải, khi mà các doanh nghiệp chưa thích nghi với việc thay đổi công nghệ xanh thì giới hạn 10% này có thể tạo nên gánh nặng lớn cho các doanh nghiệp bị áp đặt hạn mức khi phải vừa nhanh chóng bỏ ra chi phí lớn để đầu tư đổi mới công nghệ, vừa có khả năng bị phạt hành chính cho lượng phát thải bị vượt quá hạn ngạch được phân bổ. Do đó, tác giả đề xuất nâng mức giới hạn này và điều chỉnh giảm dần theo thời gian, giúp doanh nghiệp có thêm thời gian thích nghi với công nghệ xanh. Việc nâng mức trần này sẽ thúc đẩy giao dịch tín chỉ các-bon, tạo doanh thu cho các dự án các-bon và khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sạch.

Bên cạnh đó, Nghị định số 06/2022/NĐ-CP hiện nay chưa quy định cụ thể các điều kiện để các cá nhân, tổ chức được tham gia giao dịch tín chỉ các-bon. Tham khảo mô hình của Nhật Bản, các chủ thể muốn tham gia thị trường tín chỉ các-bon phải đáp ứng các tiêu chí khắt khe, bao gồm yêu cầu về tư cách pháp lý, không trong tình trạng phá sản, và không có nhân sự có án tích. Quy định của pháp luật Nhật Bản đã cho thấy Nhật Bản đặt ra yêu cầu rất khắt khe đối với chủ thể đăng ký tham gia thị trường tín chỉ các-bon và có nhiều quy định dẫn chiếu đến quy tắc giao dịch trên thị trường chứng khoán do thị trường tín chỉ các-bon Nhật Bản được thành lập dựa trên thị trường chứng khoán Nhật Bản. Tương tự, tại Việt Nam, thị trường tín chỉ các-bon cũng được xây dựng dựa trên mô hình của thị trường chứng khoán[10]. Vì vậy, các điều kiện đối với chủ thể tham gia thị trường tín chỉ các-bon đặc biệt là bên bán tín chỉ các-bon cũng cần được quy định chặt chẽ như cách thức quy định các điều kiện tham gia thị trường chứng khoán nhằm bảo đảm tính hợp pháp và chất lượng của hàng hóa giao dịch. Theo các quy định của Luật Chứng khoán Việt Nam, một doanh nghiệp muốn đưa cổ phiếu niêm yết lên sàn chứng khoán cần thì cần phải đáp ứng các điều kiện về vốn điều lệ và số lượng cổ đông vì hàng hóa giao dịch trên thị trường là cổ phần tức một phần quyền sở hữu của doanh nghiệp. Trong khi đó, hàng hóa trên thị trường các-bon là tín chỉ các-bon nên tác giả cho rằng điều kiện tiên quyết để một chủ thể tham gia thị trường các-bon với tư cách bên bán đó là phải có khả năng sản xuất ra tín chỉ các-bon hoặc có quyền sở hữu hợp pháp đối với tín chỉ các-bon. Điều kiện này cần được cơ quan nhà nước kiểm tra, đánh giá thông qua các hồ sơ tài liệu mà doanh nghiệp cung cấp khi đăng ký tham gia thị trường các-bon tương tự như cách thức doanh nghiệp nộp hồ sơ chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng trên thị trường chứng khoán. Tại Hoa Kỳ, tín dụng các-bon được tạo ra khi chủ đầu tư đăng ký và trao đổi các-bon. Chỉ những mức giảm phát thải đã được xác minh mới đủ điều kiện tham gia trao đổi[11].

Bên cạnh khả năng sản xuất và sở hữu tín chỉ các-bon, các thông tin pháp lý của chủ thể tham gia thị trường các-bon đặc biệt là thông tin chủ thể bán cũng cần được minh bạch thì tín chỉ các-bon do họ cung cấp trên thị trường mới có tính thanh khoản. Chính vì điều này mà Nhật Bản đã đặt ra rất nhiều yêu cầu về sự minh bạch và uy tín của doanh nghiệp tham gia thị trường các-bon mà Việt Nam cần học hỏi khi xây dựng các quy chế tham gia giao dịch tín chỉ các-bon. Theo đó, Nhật Bản quy định nghĩa vụ công bố thông tin của chủ thể tham gia rất nghiêm ngặt thể hiện tại Điều 13 của bảng điều khoản và điều kiện tham gia thị trường tín chỉ các-bon quy định về các trường hợp chủ thể tham gia phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin như khi chủ thể tham gia thị trường các-bon không còn đủ điều kiện tiên quyết để trở thành chủ thể giao dịch, khi chủ thể tham gia gặp khó khăn khiến không thể tiếp tục kinh doanh hoặc khi bị phá sản hoặc bị truy tố trách nhiệm hình sự,…

Sàn giao dịch tín chỉ các-bon Việt Nam cũng dự kiến được vận hành tương tự như sàn giao dịch chứng khoán[12] nên tác giả cho rằng quy chế giao dịch chứng khoán nên được tham khảo áp dụng cho sàn giao dịch tín chỉ các-bon để bảo đảm tính an toàn, công khai, minh bạch cũng như rút kinh nghiệm từ những sự kiện tiêu cực thường xuyên diễn ra trên thị trường chứng khoán như hành vi thao túng giá hay giao dịch nội gián. Chỉ khi sàn giao dịch tín chỉ các-bon được vận hành an toàn thì mục tiêu cắt giảm lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam mới được hoàn thành theo như cam kết giữa Việt Nam và quốc tế.

Kết luận

Khung pháp lý hiện hành về thị trường tín chỉ các-bon tự nguyện tại Việt Nam đã đưa ra những quy định cơ bản, song vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng, gây khó khăn cho việc bảo vệ quyền lợi và thực hiện nghĩa vụ của các chủ thể tham gia. Việc phân loại tín chỉ các-bon như một loại tài sản, cùng với quy định cụ thể về điều kiện tham gia và chính sách thuế có thể áp dụng là cần thiết để bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và thúc đẩy sự phát triển bền vững của thị trường, góp phần giảm phát thải khí nhà kính.

 

TRẦN NGỌC ĐAN TRÂM (Trường ĐH Kinh tế - Luật, ĐHQG TP.HCM)

Tài liệu tham khảo

1. Brad Gould, Stephen R. Looney, Legal and Tax Issues of Các-bon Credit Trading,  https://www.deanmead.com/legal-and-tax-issues-of-các-bon-credit-trading/.

2. Đinh Chiến, La Sơn, Kinh nghiệm một số quốc gia và gợi mở nghiên cứu xây dựng khung pháp lý phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam, https://phaply.net.vn/kinh-nghiem-mot-so-quoc-gia-va-goi-mo-nghien-cuu-xay-dung-khung-phap-ly-phat-trien-thi-truong-cac-bon-o-viet-nam-a257387.html.

3. George M. Padis, Carbon Credits as Collateral, Journal of Technology Law & Policy, (16), (2011), tr.353.

4. Jeffrey M. Hirsch, Emissions Allowance Trading Under the Clean Air Act: A Model for Future Environmental Regulations?, N.Y.U. Environmental Law Journal, (7), (1999), tr.383.

5. Justin Boyd, An Introductory Guide for New Market Participants in Trading of Các-bon Credits and Offsets, https://mercatis.law/2022/10/25/trading-of-các-bon-credits-and-offsets/.

6. Kelvin F. K. Low, Jolene Lin, Carbon credits as EU like it: Property, immunity, tragiCO2medy?, Journal of Environmental Law, 27(3), (2015), tr.7.

7. Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật Dân sự Tập 1, NXB. Đại học quốc gia TP.HCM, 2018, tr.221.

8. Trần Văn Biên, Nguyễn Minh Oanh, Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở Việt Nam hiện nay, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tien-ao-va-mot-so-van-de-phap-ly-114.

9. Mạch Hồng Phương, Thị trường các-bon trong nước tác động đến việc thực hành ESG của doanh nghiệp, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thi-truong-cac-bon-trong-nuoc-tac-dong-den-viec-thuc-hanh-esg-cua-doanh-nghiep-116533.htm.

10. Lê Thị Minh, Một số vấn đề pháp lý về tín chỉ các-bon, https://danchuphapluat.vn/mot-so-van-de-phap-ly-ve-tin-chi-cac-bon.

11. Phương Thảo, COP26 - Lộ trình phát triển thị trường các-bon trong nước, https://congthuong.vn/cop26-lo-trinh-phat-trien-thi-truong-các-bon-trong-nuoc-271624.html.

12. Hồng Ánh, Kinh nghiệm quốc tế về thiết kế sàn giao dịch tín chỉ các-bon,  https://tapchitaichinh.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-thiet-ke-san-giao-dich-tin-chi-cac-bon.html.  ”


[1] Đinh Chiến, La Sơn, Kinh nghiệm một số quốc gia và gợi mở nghiên cứu xây dựng khung pháp lý phát triển thị trường các-bon ở Việt Nam, https://phaply.net.vn/kinh-nghiem-mot-so-quoc-gia-va-goi-mo-nghien-cuu-xay-dung-khung-phap-ly-phat-trien-thi-truong-cac-bon-o-viet-nam-a257387.html, truy cập ngày 02/5/2025.

[2] Justin Boyd, An Introductory Guide for New Market Participants in Trading of Carbon Credits and Offsets, https://mercatis.law/2022/10/25/trading-of-carbon-credits-and-offsets/, truy cập ngày 02/5/2025.

[3] Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật Dân sự Tập 1, Nxb. Đại học quốc gia TP.HCM, năm 2018, tr.221.

[4] Trần Văn Biên, Nguyễn Minh Oanh Tiền ảo và một số vấn đề pháp lý đặt ra ở Việt Nam hiện nay, https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc-xa-hoi-va-nhan-van/Tien-ao-va-mot-so-van-de-phap-ly-114, truy cập ngày 02/5/2025.

[5]  Jeffrey M. Hirsch, Emissions Allowance Trading Under the Clean Air Act: A Model for Future Environmental Regulations?, N.Y.U. Environmental Law Journal, (7), (1999), tr.383.

[6] Kelvin F. K. Low, Jolene Lin, Carbon credits as EU like it: Property, immunity, tragiCO2medy?, Journal of Environmental Law, 27(3), (2015), tr.7.

[7] George M. Padis, Carbon Credits as Collateral, Journal of Technology Law & Policy, (16), (2011), tr.353.

[8] Mạch Hồng Phương, Thị trường các-bon trong nước tác động đến việc thực hành ESG của doanh nghiệp, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thi-truong-cac-bon-trong-nuoc-tac-dong-den-viec-thuc-hanh-esg-cua-doanh-nghiep-116533.htm, truy cập ngày 02/5/2025.

[9] Lê Thị Minh, Một số vấn đề pháp lý về tín chỉ các-bon, https://danchuphapluat.vn/mot-so-van-de-phap-ly-ve-tin-chi-cac-bon, truy cập ngày 02/5/2025.

[10] Phương Thảo, COP26 - Lộ trình phát triển thị trường carbon trong nước, https://congthuong.vn/cop26-lo-trinh-phat-trien-thi-truong-carbon-trong-nuoc-271624.html, truy cập ngày 02/5/2025.

[11] Brad Gould, Stephen R. Looney, Legal and Tax Issues of Carbon Credit Tradinghttps://www.deanmead.com/legal-and-tax-issues-of-carbon-credit-trading/, truy cập ngày 02/5/2025.

[12] Hồng Ánh, Kinh nghiệm quốc tế về thiết kế sàn giao dịch tín chỉ các-bonhttps://tapchitaichinh.vn/kinh-nghiem-quoc-te-ve-thiet-ke-san-giao-dich-tin-chi-cac-bon.html, truy cập ngày 02/5/2025.

Ảnh minh hoạ - Nguồn: Internet.