Quán triệt quan điểm của Đảng, Nhà nước trong xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú

(TCTA) - Bài viết phân tích một số nội dung trọng tâm trong các Văn kiện của Đảng, văn bản luật của Nhà nước và chuẩn mực quốc tế làm căn cứ cho việc xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú. Bám sát những chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà nước, tác giả kiến nghị một số nội dung cần tiếp tục hoàn thiện trong Dự thảo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.

1. Đặt vấn đề

Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2018) đã góp phần quan trọng trong việc triển khai thực hiện Bộ luật hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm 2015; góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và chủ động hội nhập quốc tế, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cần được tiếp tục được nghiên cứu, sửa đổi mở rộng phạm vi điều chỉnh để phù hợp với đường lối quan điểm của Đảng; phù hợp với mô hình chính quyền, mô hình công an ba cấp. Bài viết này sẽ chỉ ra những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và một số định hướng mà Ban soạn thảo cần quán triệt để hoàn thiện Dự án luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Những quan điểm cần quán triệt trong xây dựng dự án Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú

Xây dựng Dự thảo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú cần quán triệt đầy đủ các yêu cầu sau:

Một là, Chiến lược cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; nâng cao hiệu năng, hiệu lực của hệ thống chính trị gắn với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền đã chỉ rõ “Rà soát, điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo hướng tinh, gọn, chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao và góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân đối với người bị giữ, bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật”. Các nghiên cứu đã chỉ ra quyền con người trong các Văn kiện của Đảng là bao quát, toàn diện như quyền sống, quyền tự do thân thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền tiếp cận thông tin, quyền lập hội... Quyền con người vừa mang giá trị phổ quát của nhân loại, vừa phù hợp với giá trị truyền thống của Việt Nam[1]. Quyền con người thuộc về mọi người. Người bị tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú thì họ chỉ bị nghi là người có tội hoặc người bị tạm giam dù có tội[2]thì họ vẫn có các quyền con người. Do vậy, các biện pháp ngăn chặn trong đó có tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú được áp dụng để phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án… phải góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân cho đối tượng bị áp dụng.

Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp, tinh gọn hệ thống chính trị; nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cũng là những định hướng, chủ trương lớn cho việc nghiên cứu, sửa đổi Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú. Với việc ban hành, triển khai thực hiện các Kết luận 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban chấp hành Trung ương; Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025, Kết luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng… thì mô hình, tổ chức của hệ thống chính trị đã có sự thay đổi căn bản, toàn diện. Mô hình chính quyền địa phương hai cấp trong mô hình chính quyền ba cấp; mô hình công an địa phương hai cấp trong mô hình công an ba cấp; 63 tỉnh, thành phố sáp nhập còn 34 tỉnh, thành phố, cả nước chỉ còn 3321 đơn vị hành chính cấp xã, không tổ chức mô hình chính quyền cấp huyện[3]… Như vậy trại tạm giam của công an cấp tỉnh, hệ thống nhà tạm giữ công an cấp huyện đã thay đổi (riêng hệ thống trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc sự quản lý của Bộ quốc phòng không có sự thay đổi). Mô hình, tổ chức hệ thống cơ sở giam, giữ sau ngày 01/7/2025 đã tác động trực tiếp đến thẩm quyền, trình tự, thủ tục… thi hành biện pháp tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú trong tố tụng hình sự. Hiện nay, mô hình công an ba cấp thì Cơ quan điều tra trong CAND chỉ được thành lập ở Bộ Công an và Công an cấp tỉnh; mô hình Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân khu vực. Rõ ràng thẩm quyền khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không hoàn toàn tương thích như quy định của Bộ luật TTHS năm 2015, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Những thay đổi trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng cần phải được thể chế hóa kịp thời trong các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực tư pháp hình sự trong đó có Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hai là, cần tiếp tục cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) và nhiều luật khác về quyền con người, quyền công dân trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm…” “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào”[4].

Các quyền con người, quyền công dân không chỉ được ghi nhận trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong các luật chuyên ngành như Luật tín ngưỡng, tôn giáo, Luật tiếp cận thông tin... Chẳng hạn“Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người”[5]; “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin”[6].

Cùng với việc ghi nhận các quyền cơ bản, Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ rõ “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”[7]

Từ những quy định của Hiến pháp và các luật đã được chỉ dẫn nêu trên đặt ra yêu cầu về nội dung của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú phải phù hợp với Hiến pháp, các luật chuyên ngành và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam.

Ba là, Xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cần tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật quốc tế và thực tiễn công tác thi hành án hình sự của một số quốc gia trên thế giới, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam

Quy định của luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn không đơn thuần là công việc nội bộ của Việt Nam, không chỉ là nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn phải phù hợp với chuẩn mực quốc tế; phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau…”[8]. Trong kỉ nguyên vươn mình của dân tộc hiện nay, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới đã đề ra nhiều nội dung quan trọng trong đó hội nhập quốc tế về chính trị, quốc phòng, an ninh để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa nâng cao tiềm lực, vị thế của đất nước[9]. Việt Nam đã tham gia tất cả các Điều ước quốc tế đa phương có hiệu lực pháp lý trên toàn cầu về lĩnh vực tư pháp hình sự như Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Công ước chống tra tấn, Công ước về các quyền dân sự, chính trị[10]… Việt Nam cũng là thành viên của Interpol, Aseanpol… Vì vậy, việc xây dựng luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú phải bảo đảm sự phù hợp với các Điều ước quốc tế mà nhà nước ta đã kí kết, tham gia; phù hợp với địa vị pháp lý của một quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, truyền thống pháp lý nhân văn, nhân đạo... Việt Nam chung tay với các quốc gia trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án… góp phần xây dựng thế giới hòa bình, ổn định, phát triển.

Bốn là xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú phải đảm bảo tính cụ thể, minh bạch, khả thi.

Bộ luật TTHS quy định 08 biện pháp ngăn chặn. Trong đó, tạm giữ, tạm giam là nghiêm khắc nhất, tác động trực tiếp đến quyền tự do thân thể và nhiều quyền khác của người bị buộc tội. Do vậy, quy định của luật phải rõ về nội dung, chặt chẽ về thủ tục, đảm bảo tính khả thi, minh bạch. Trong giai đoạn của toàn cầu hóa, kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú cần quán triệt tốt Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Nghị quyết 57-NQ/TW đã chỉ rõ  “Bảo đảm an toàn, an ninh mạng và chủ quyền quốc gia trên nền tảng số và không gian mạng; an ninh, an toàn dữ liệu hợp pháp của tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và chủ quyền an ninh dữ liệu quốc gia. Hiện đại hoá vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, an ninh. Từng bước ứng dụng công nghệ số trong chỉ huy, điều hành tác chiến của lực lượng vũ trang cũng như làm chủ công nghệ cao trong hoạt động quốc phòng, an ninh…”

Tiếp cận ở khía cạnh hiệu lực, hiệu quả, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam cấm đi khỏi nơi cư trú phải góp phần thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và góp phần giải quyết vụ án hình sự khách quan, chính xác, toàn diện và đầy đủ. Do vậy, Ban soạn thảo cần tính toán kĩ lưỡng để quán triệt tốt các yêu cầu trong xây dựng Luật, xây dựng Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành luật.  

3. Một số định hướng hoàn thiện Luật

         Thứ nhất, cần bổ sung nguyên tắc Bảo đảm hợp tác quốc tế trong thi hành tạm giữ, giam, cấm đi khỏi nơi cư trú. Với bốn cơ sở được dẫn chiếu trong mục 2 của bài biết này đã chỉ ra rằng việc tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú không đơn thuần chỉ phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước Việt Nam. Thi hành tạm giữ, tạm giam còn phải phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, bảo đảm hợp tác giữa các quốc gia trong dẫn độ, chuyển giao người bị kết án… Tại Điều 8, Điều 18, Điều 30 của Dự thảo Luật cũng quy định quyền được tiếp xúc lãnh sự và trình tự, thủ tục cụ thể của việc tiếp xúc lãnh sự. Do vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật được quy định tại Điều 6 cần được bổ sung Nguyên tắc bảo đảm hợp tác quốc tế trong thi hành tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú.

  Thứ hai, bỏ quy định tại điểm d, khoản 1 Điều 10 Hệ thống tổ chức cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam “Nhà tạm giữ Công an cấp huyện; nhà tạm giữ Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân”. Như đã chỉ ra từ cơ sở thứ nhất trong mục 2 của bài viết này; sau khi triển khai các Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và sửa đổi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2025; Chính quyền địa phương không được tổ chức ở cấp huyện, Công an địa phương chỉ còn mô hình Công an cấp tỉnh và Công an cấp xã. Như vậy, việc bãi bỏ điểm d, khoản 1, Điều 10 là phù hợp với thực tế về mô hình tổ chức Công an địa phương hai cấp. Tuy nhiên, hệ thống các nhà tạm giữ công an cấp huyện trước đây đã được đầu tư đúng quy chuẩn kĩ thuật, an toàn, vẫn rất cần thiết cho việc tạm giữ, tạm giam. Do vậy, cần chuyển nhà tạm giữ thành phân trại tạm giam của Công an cấp tỉnh và đặt địa vị pháp lý tương đương với cấp đội trực thuộc Trại tạm giam. Việc chuyển đổi tên gọi nhà tạm giữ thành phân trại tạm giam cần được thống nhất trong Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an hướng dẫn thực hiện quy định tại khoản 2, Điều 10 Dự thảo Luật “2. Bộ trưởng Bộ Công an quyết định thành lập, giải thể, quy mô, tổ chức lại, tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn cơ sở giam giữ; ban hành nội quy của cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quyết định thành lập, giải thể, quy mô, tổ chức lại, tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn cơ sở giam giữ; ban hành nội quy của cơ sở giam giữ trong Quân đội nhân dân”

Thứ ba, các đơn vị chuyên trách triển khai thi hành tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú cần được đầu tư, trang bị đủ cơ sở vật chất, kĩ thuật để số hóa, bảo quản khai thác dữ liệu hiệu quả. Thực hiện yêu cầu này, Cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Điều 13 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cưu trú. Thông tư của Bộ trưởng quy định rõ về việc giao Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (C06) phối hợp với Cục Cảnh sát quản lý tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự tại cộng đồng (C11) tiến hành thu thập dữ liệu sinh trắc học gồm ảnh khuôn mặt, vân tay, mống mắt, ADN, giọng nói đối với người bị tạm giữ, tạm giam (chưa được thu thập sinh trắc học trong Dữ liệu căn cước). Cục C11 là đơn vị thống nhất quản lý, khai thác dữ liệu sinh trắc học, dữ liệu nhân thân của đối tượng bị áp dụng tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú trong toàn bộ hệ thống các cơ sở giam giữ trong toàn quốc để đảm bảo chặt chẽ, minh bạch.

         Thứ tư, cần ban hành Thông tư liên tịch giữa Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định rõ về việc bảo đảm biên chế, nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú. Thông tư cần quy định rõ về quy chuẩn kỹ thuật trong thiết kế và xây dựng các cơ sở giam giữ và các tiêu chuẩn ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đảm bảo an ninh, an toàn. Để triển khai hiệu quả biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tránh tình trạng người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này vi phạm nghĩa vụ như bỏ trốn, phạm tội mới…[11], cần trang bị thiết bị giám sát điện tử thay thế cho việc giám sát thủ công hiện nay. Đồng thời cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan áp dụng biện pháp ngăn chặn với công an cấp xã trong việc giám sát người bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Riêng đối với vòng giám sát điện tử cần tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Liên bang Nga để lựa nhà cung cấp để vừa đảm bảo giám sát, theo dõi chặt chẽ, tránh để đối tượng bị áp dụng vi phạm nghĩa vụ. Đồng thời lựa chọn chủng loại vòng giám sát điện tử có kích thước phù hợp với cổ tay, cổ chân của người Việt Nam góp phần bảo đảm quyền con người của người bị áp dụng tránh sự xa lánh của cộng đồng, nơi đối tượng bị áp dụng cư trú, sinh sống.

         Đối với người bị tạm giam để chờ thi hành án tử hình cần có sự đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp để đảm bảo an toàn cho người bị tạm giam tránh tình trạng bị án tự sát hoặc gây mất an ninh trật tự trong trại tạm giam; gây thương tích cho cán bộ, chiến sĩ làm công tác quản lý, giáo dục. Đồng thời cần đầu tư trang bị phương tiện giám sát buồng giam, giám sát điện tử để kịp thời phát hiện những nguy cơ đe dọa an toàn cơ sở giam giữ. Những nội dung này cũng cần được điều chỉnh trong Thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an khi triển khai thi hành Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.

         Kết luận

         Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú thay thế cho Luật thi hành tạm giữ, tạm giam là cần thiết đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Yêu cầu đặt ra, sau khi được ban hành, Luật sớm đi vào thực tiễn góp phần thực hiện có hiệu quả biện pháp tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú. Do vậy, trong quá trình soạn thảo, Ban soạn thảo cần nghiên cứu quán triệt các quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự… Đồng thời, những Điều ước quốc tế đa phương mà Nhà nước ta đã kí kết, phê chuẩn; những kinh nghiệm bài học sau hơn tám năm thi hành Luật tạm giữ, tạm giam cũng cần được nghiên cứu, tiếp thu để có được Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú đáp ứng yêu cầu thực tiễn.

Ths. BÙI ĐÌNH TIẾN (Khoa Luật, Trường Đại học An ninh nhân dân )

(1) OHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr.1; Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội trang 38

(2) Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 13, Bộ luật TTHS năm 2015)

[3] https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/danh-sach-3321-don-vi-hanh-chinh-cap-xa-tai-34-tinh-thanh-sau-sap-xep-sap-nhap-119250710102358656.htm

[4] Điều 20, Điều 24 Hiến pháp năm 2013

[5] Điều 3, Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016

[6] Điều 3, Luật tiếp cận thông tin năm 2016

[7] Khoản 2, Điều 14 Hiến pháp năm 2013

[8] Điều 8, Hiến pháp năm 2013

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới

[10] https://treaties.un.org/pages/viewdetails.aspx?src=treaty&mtdsg_no=xviii-12&chapter=18&clang=_en

[11] Theo Tờ trình số 04/TTr-BCA của Bộ Công an về Dự án Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú, từ ngày 01/01/2028 đến hết ngày 30/6/2024, trong số 342080 đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú thì có 3861 đối tượng vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 123 Bộ luật TTHS năm 2015.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Tập II, NXB Chính trị quốc gia sự thật.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 09/11/2022 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Về tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Kết luận 121-KL/TW ngày 24/01/2025 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII Về Tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII Một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Kết luận số 127-KL/TW ngày 28/02/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Về triển khai nghiên cứ, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Kết luận số 137-KL/TW ngày 28/3/2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Về Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 của Bộ Chính trị Về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

7. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

8. Hiến pháp năm 2013 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2025).

9. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2025).

10. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2025).

11. Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015.

12. Dự án Luật thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú.

Ngày 12/11/2025, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định, điều hành Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) và dự án Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và cấm đi khỏi nơi cư trú. Ảnh: Quang Khánh.