Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội, so với BLHS 1999, ở BLHS năm 2015 quy định cụ thể các tình tiết định khung tăng nặng, đồng thời bỏ các tình tiết định tính chung chung, dễ dẫn đến việc áp dụng không thống nhất.
1.Quy định của điều luật
Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người mà mình biết rõ là không có tội, do người có thẩm quyền điều tra, truy tố thực hiện một cách cố ý, xâm phạm sự hoạt động đúng đắn và uy tín của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện bởi hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Theo đó, truy cứu trách nhiệm hình sự (trong tội phạm này) là hành vi: khởi tố bị can bằng Quyết định khởi tố bị can; truy tố bằng Bản cáo trạng hoặc Quyết định truy tố (đối với vụ án được áp dụng thủ tục rút gọn). Bởi lẽ, mặc dù xét xử người mà mình biết rõ là không có tội cũng thuộc nội hàm của truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội. Tuy nhiên, hành vi xét xử người không có tội được quy định là một tội phạm độc lập “Tội ra bản án trái pháp luật (Điều 370 BLHS)” nên Tội truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội và Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội chỉ là hành vi khởi tố, truy tố người không có tội và hành vi không khởi tố, truy tố người có tội.
Người không có tội là: Người không thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS; Người thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS nhưng thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự, không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong đó, trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự là trường hợp thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Do vậy, trường hợp xuất hiện sự nghi ngờ về khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của bị can sau khi khởi tố bị can; cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát mới trưng cầu giám định và ra quyết đình chỉ vụ án do bị can thuộc trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự, thì hành vi khởi tố bị can trước đó không bị coi là hành vi truy cứu trách nhiệm hình sự. Tội phạm hoàn thành từ thời điểm ban hành Quyết định khởi tố bị can, Bản cáo trạng hoặc Quyết định truy tố.
2. Về hình phạt
Điều 368 BLHS quy định 3 khung hình phạt. Theo đó:
- Khoản 1 quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
- Khoản 2 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
+ Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong đó: Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia là khởi tố bị can, truy tố bị can về một trong những tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII “Các tội xâm phạm an ninh quốc gia” BLHS; Truy cứu trách nhiệm hình sự về tội khác là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là khởi tố bị can, truy tố bị can về tội phạm theo khung mà BLHS quy định mức hình phạt cao nhất là tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
+ Đối với 02 người đến 05 người. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 02 người đến 05 người không có tội là cùng một lần ra quyết định khởi tố bị can, truy tố bị can đối với từ 02 người đến 05 người.
+ Đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu là cùng một lần ra quyết định khởi tố bị can, truy tố bị can đối với một hoặc một số người là người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu. Trường hợp khởi tố bị can, truy tố bị can đối với từ 02 người đến 05 người , trong đó có 2 hoặc cả 3 người là người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai hoặc người già yếu, thì người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại cả điểm b và c khoản 2 Điều luật này. Trường hợp khởi tố bị can, truy tố bị can đối với từ 06 người trở lên, trong đó có 2 hoặc cả 3 người là người dưới 18 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai hoặc người già yếu, thì người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều luật này.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% là trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội dẫn tới việc họ hoang mang, ốm đau đến mức rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%. Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể do rối loạn tâm thần và hành vi được thực hiện theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. Đây là trường hợp khởi tố bị can, truy tố bị can dẫn tới việc Tòa án xét xử và kết án người không có tội về tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng. Trong trường hợp này, Thẩm phán và Hội thẩm phạm tội ra bản án trái pháp luật nếu họ biết rõ người bị truy tố là người không có tội theo quy định tại khoản 1 (nếu kết án họ về tội ít nghiêm trọng) hoặc điểm c khoản 2 (nếu kết án họ về tội nghiêm trọng) Điều 370 BLHS.
+ Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Phạm tội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội là gây ra những tác động xấu đến tình hình an ninh, tác động tiêu cực đến trật tự, an tòa xã hội. Đây là tình tiết định tính do vậy khi áp dụng tình tiết này phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an tòa xã hội.
- Khoản 3 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:
+ Đối với 06 người trở lên. Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với 06 người trở lên không có tội là cùng một lần ra quyết định khởi tố bị can, truy tố bị can đối với từ 06 người trở lên. Do vậy, khi xét xử một người có nhiều lần truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều người (trong đó có lần truy cứu trách nhiệm hình sự 01 người không có tội, có lần truy cứu trách nhiệm hình sự từ với 02 người đến 05 người không có tội), thì người phạm tội bị áp dụng cả điểm b khoản 2 Điều 368 và điểm g “Phạm tội từ 02 lần trở lên” khoản 1 Điều 53 BLHS. Khi xét xử một người có nhiều lần truy cứu trách nhiệm hình sự nhiều người (trong đó có lần truy cứu trách nhiệm hình sự từ 06 người trở lên không có tội, có lần truy cứu trách nhiệm hình sự từ với 01 người đến 05 người không có tội), thì người phạm tội bị áp dụng cả điểm a khoản 3 Điều 368 và điểm g “Phạm tội từ 02 lần trở lên” khoản 1 Điều 52 BLHS.
+ Dẫn đến việc kết án oan người vô tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đây là trường hợp khởi tố bị can, truy tố bị can dẫn tới việc Tòa án xét xử và kết án người không có tội về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp này, Thẩm phán và Hội thẩm phạm tội ra bản án trái pháp luật nếu họ biết rõ người bị truy tố là người không có tội theo quy định tại điểmc khoản 2 (nếu kết án họ về tội rất nghiêm trọng) hoặc điểm a khoản 3 (nếu kết án họ về đặc biệt nghiêm trọng) Điều 370 BLHS.
+ Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên. Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% là trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội dẫn tới việc họ hoang mang, ốm đau đến mức rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên. Việc giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể do rối loạn tâm thần và hành vi được thực hiện theo Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
+ Làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát. Phạm tội làm người bị truy cứu trách nhiệm hình sự oan tự sát là trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội dẫn tới việc họ hoang mang, sợ sệt hoặc ức chế và tự sát.
- Khoản 4 quy định hình phạt bổ sung áp dụng đối với người phạm tội là bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
3. Một số điểm mới
So với quy định tại Điều 293 BLHS năm 1999, thì quy định tại Điều 368 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây[1]:
- Thứ nhất, về các tình tiết định khung tăng nặng thì Điều 368 BLHS quy định cụ thể các tình tiết định khung tăng nặng, đồng thời bỏ các tình tiết định tính chung chung, dễ dẫn đến việc áp dụng không thống nhất như “hậu quả nghiêm trọng”, “hậu quả rất nghiêm trọng”, “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Ngoài ra, số lượng các tình tiết định khung tăng nặng cũng được bổ sung, trong đó có đến 06 tình tiết ở khoản 2 và 04 tình tiết ở khoản 3 (Điều 293 BLHS 1999 chỉ có 02 tình tiết ở khoản 2 và 02 tình tiết ở khoản 3);
- Thứ hai, về hình phạt thì Điều 368 đã tăng mức khởi điểm của khung 2 và khung 3 lên 05 năm tù và 10 năm tù (Điều 293 BLHS 1999 là 03 năm và 07 năm).
Tòa án huyện Trạm Tấu, Yên Bái xét xử vụ án hình sự- Ảnh: Trịnh Hoàng
[1] Xem: LS. ThS Phạm Thanh Bình, TS. Nguyễn Mai Bộ và các tác giả, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ cung năm 2017), Phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2018, 861.
Bài liên quan
Bài đọc nhiều nhất tuần
-
Nhận thức về đối tượng áp dụng “đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự” để được xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù
-
Tòa tuyên án với 17 bị cáo trong vụ án "chuyến bay giải cứu" giai đoạn 2
-
Thừa Thiên Huế: Bắt nhóm đối tượng “lừa vàng” chuyên nghiệp
-
Sắp diễn ra Tuần lễ Du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu 2024
-
Thực trạng áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam
Bình luận